Tình sử bi thương làm nên tuyệt phẩm “Đồi thông hai mộ”
Khác với những địa danh có nhiều giai thoại không được kiểm chứng thì phía sau đồi thông hai mộ ở TP Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) là một câu chuyện tình éo le có thật cách đây hơn 60 năm về trước giữa chàng trai tên Vũ Minh Tâm và cô gái tên Lê Thị Thảo. Và, thương tiếc đôi nhân tình trẻ này, nhạc sĩ Hồng Vân đã viết nên ca khúc nổi tiếng “Đồi thông hai mộ”.
Từ thiên tình sử đầy bi thương
Nằm cách trung tâm TP Đà Lạt khoảng 6km về phía Đông, hồ Than Thở là một địa điểm du lịch nổi tiếng của thành phố ngàn hoa này. Ngay bên cạnh hồ Than Thở là một đồi thông có tên là đồi thông hai mộ. Ở đây có hai ngôi mộ gắn liền với câu chuyện tình buồn có thật của chàng trai tên Tâm và cô gái tên Thảo. Câu chuyện này đã xảy ra hơn nửa thế kỷ, nhưng dư âm của cuộc tình tột cùng đau đớn dường như vẫn còn phảng phất phía sau khung cảnh u buồn của đồi thông hai mộ…
Chuyện kể rằng, Tâm quê gốc ở Gò Công (tỉnh Tiền Giang), là con trai của một gia đình đại điền chủ giàu có. Trong khi đó, Thảo chỉ là con gái của một gia đình công chức nghèo ở thành phố trên cao nguyên Lang Biang. Họ gặp nhau, yêu nhau tha thiết, hẹn hò nhau ở đồi thông và thề non hẹn biển. Sau khi tốt nghiệp, Tâm về Tiền Giang xin cha mẹ cưới Thảo.
Nhưng gia đình chàng đã phản đối kịch liệt vì nhà gái không “môn đăng hộ đối”. Cha mẹ bắt chàng đi cưới người con gái mà mình không hề yêu mến. Không thể cãi lời cha mẹ, nhưng cũng không thể phụ tình người yêu ở Đà Lạt, Tâm đã làm đơn xin đến một vùng tuyến đầu lửa đạn. Trước khi đi, chàng công tử xứ Gò Công có gửi cho người yêu một bức thư, dặn dò cô đợi chờ mình.
Tin tưởng vào lời ước hẹn tình yêu, Thảo chung thủy chờ đợi mối tình đầu, dẫu cho bao chàng trai theo đuổi cũng mặc. Những lúc nhớ người yêu, Thảo thường đi dạo quanh bờ hồ Than Thở, đi dạo quanh đồi thông ven hồ, nơi cô và người yêu có biết bao là kỷ niệm. Những cánh thư gửi về là niềm vui, là lẽ sống của Thảo. Cho đến một ngày, nàng nhận được tin người yêu đã chết. Quá buồn rầu, ngày 15/3/1956, nàng tìm đến khu đồi thông bên bờ hồ Than Thở rồi tự tử.
Trên tay nàng vẫn còn nắm chặt bức thư tình gửi người yêu. Trước khi chết, nàng để lại bức thư xin người nhà chôn nàng trên đồi thông. Nhưng thật ra Tâm chưa chết - người ta đã nhầm khi báo tử. Khi trở về, Tâm mới hay Thảo đã chết và được chôn trên đồi thông vi vu gió ngàn.
Chàng trai chung tình đã khóc hết nước mắt bên nấm mồ người yêu nay đã xanh cỏ. Sau những ngày đau buồn, Tâm không quay về Gò Công mà trở lại chiến trường lửa đạn. Một thời gian sau, Tâm tử trận. Trong những kỷ vật của Tâm, có những dòng nhật ký về Thảo. Tâm có viết một dòng trong nhật ký như lời di chúc, dặn nếu mình chết, Tâm mong được đưa về chôn cất bên cạnh mộ người yêu, trên đồi thông.
Trong cuốn nhật ký, Tâm viết về mối tình của mình rằng: “Nước biếc non xanh dù biến đổi/ Mối tình chung thủy Thảo trong Tâm/ Chiều chưa xuống mà nắng vàng vội tắt/ Đêm chưa về mà cỏ đã đầm sương/ Cả núi rừng ngấn lệ tiếc thương/ Cho mối tình ngang trái của đôi uyên ương không thành…”. Thương xót mối tình của đôi trai gái bất hạnh, người ta đưa Tâm về, chôn cất Tâm ngay bên cạnh mộ Thảo. Gia đình Thảo vẫn qua lại hương khói cho cả hai ngôi mộ.
Người dân quanh vùng biết chuyện, cũng thường đến thắp hương ở đây. Kể từ đó, đồi thông có tên gọi là đồi thông hai mộ. Nhiều cặp tình nhân tin rằng, nếu gặp trắc trở trong tình duyên, chỉ cần đến thắp hương lên hai ngôi mộ này, người đã khuất sẽ phù hộ cho họ vượt qua trắc trở. Nhưng bất hạnh thay, Thảo và Tâm sau khi chết vẫn bị chia rẽ. Bởi sau năm 1975, gia đình Tâm đã bốc mộ, đem di cốt của chàng về quê chôn cất. Tuy nhiên, thương cảm cho mối tình của đôi trẻ, cư dân Đà Lạt vẫn làm một ngôi mộ gió ghi tên Vũ Minh Tâm nằm cạnh mộ Lê Thị Thảo như cũ.
Đến bản tình ca “Đồi thông hai mộ”
Nhiều người cho rằng, khi xảy ra câu chuyện bi thương của Thảo và Tâm thì hồ được đổi tên thành hồ Than Thở. Tuy nhiên, nhiều tư liệu cho biết, đây vốn là một hồ nước thiên nhiên, nhưng vào năm 1917, người Pháp đã đắp đập xây dựng hồ chứa nước và đặt tên hồ là Lacdes Soupirs. Tên gọi này có hai ý nghĩa, đó là tiếng rì rào, hay còn có nghĩa là than thở. Vào năm 1956 (trùng với năm mất của Thảo), Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ đề nghị đổi từ tên Pháp ra tên Việt thành hồ Than Thở.
Sau năm 1975, hồ Than Thở được đổi tên thành hồ Sương Mai, với ý nghĩa những hạt sương buổi sớm tinh mơ. Tuy nhiên, người dân Đà Lạt mỗi khi nhắc đến hồ này đều gọi là hồ Than Thở, nên sau đó hồ được khôi phục lại tên cũ vào năm 1990. Như vậy cái tên hồ Than Thở không phải bắt nguồn từ bi kịch của chuyện tình Tâm và Thảo.
Năm 1965, nhạc sĩ Hồng Vân khi đến thăm mộ của Thảo và Tâm đã tức cảnh sinh tình viết nên ca khúc nổi tiếng “Đồi thông hai mộ” để bày tỏ sự thương tiếc với đôi tình nhân trẻ. Ở cuối bản thảo của ca khúc, nhạc sĩ viết: “Em ơi dưới lòng đất lạnh/ Chỉ hai đứa mình để dệt lại chuyện xưa”. Với giai điệu buồn da diết và từ câu chuyện tình buồn có thật, ca khúc “Đồi thông hai mộ” sau đó rất nổi tiếng và được rất nhiều ca sĩ thể hiện thành công: “…Rồi mộ chàng đã được ở cạnh nàng như lời xưa thề ước/ Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc dưới mộ sâu đất khô/ Qua bao năm rêu xanh phủ che kín âm u chẳng nhang khói/ Trời xui chi trên cây còn lá úa lá xanh kia rụng rồi…”.
Bây giờ, du khách đến Đà Lạt ghé qua đồi thông hai mộ sẽ vẫn thấy ngôi mộ của Lê Thị Thảo và Vũ Minh Tâm đứng cạnh nhau bên. Tuy nhiên, chỉ có ngôi mộ của cô gái là thật, còn ngôi mộ của chàng trai chỉ là sự hoài niệm, thương tiếc của người đời cho một mối tình đẹp không thành.
Hành trình âm nhạc của nhạc sĩ Hồng Vân
Nhạc sĩ Hồng Vân tên thật là Trần Công Quý. Bút danh Hồng Vân là tên thật người vợ của ông. Nhiều bài hát của ông được ký tên Hồng Vân - Trần Quý. Ngoài ra, ông c ò n dùng một bút danh khác là Dạ Lan Thanh. Hiện không rõ thân thế cũng như năm sinh và năm mất của nhạc sĩ Hồng Vân. Bởi sau năm 1975, không c ò n ai biết tung tích của ông và gia đình ở đâu. Quê nhà nhạc sĩ Hồng Vân chuyển vào Nam định cư tại Đà Lạt từ năm 1954, sống bằng nghề dạy nhạc và sáng tác ca khúc.
Năm 1960, nhạc sĩ Hồng Vân cùng gia đình chuyển về Sài Gòn. Ông tiếp tục viết nhạc, dạy nhạc kiếm sống. Thời điểm ấy, trên một tờ nhạc có đề mẩu quảng cáo giới thiệu “lò luyện” của nhạc sĩ Hồng Vân: “Các bạn yêu ca nhạc muốn trở thành danh ca từ sân khấu, đại nhạc hội, ph ò ng trà đến các đài phát thanh, vô tuyến truyền hình và trên mặt đĩa nhựa Việt Nam, mời các bạn ghi tên theo lớp ca nhạc Hồng Vân do chính nhạc sĩ Hồng Vân hướng dẫn với sự cộng tác của nhóm ca nhạc sĩ danh tiếng nhất Thủ Đô - Sài Gòn (nhóm Nguyễn Văn Đông) phụ trách tập luyện.
Kết quả bảo đảm sử dụng tài nghệ ngay”. Hai lớp nhạc của Hồng Vân nằm ở địa chỉ 274 Đề Thám (Sài Gòn) và 16/47 Trần Bình Trọng (tỉnh Đồng Nai). Đây chính là hai trong số những “l ò luyện” uy tín, nơi vào nghề của nhiều giọng ca thời bấy giờ. Nhạc sĩ Hồng Vân nổi tiếng trong giới nghe nhạc bình dân miền Nam với hàng trăm bản bolero.
Trong đó, có nhiều ca khúc nổi tiếng như: “Gió lạnh đêm hè”, “Như tượng đá”, “Chuyện người con gái hái sim”… Viết về Đà Lạt, ông có nhiều ca khúc như: “Đồi thông hai mộ”, “Tiếng vọng đồi thông” (tức “Đồi thông hai mộ” phần 2), “Trăng sáng đồi thông”, “Vĩnh biệt đồi thông”, “Chuyện hồ Than Thở”…
Đình Phùng (biên soạn)
Nguon: https://baophapluat.vn/