Thuở còn học trung học, trong những nôn nao bồn chồn vào đầu niên khóa mà chúng tôi thường nghĩ tới là những buổi học đầu tiên: Không biết còn bao nhiêu bạn cũ của năm trước? có bao nhiêu bạn mới? ở đâu chuyển tới? nam hay là nữ? mình sẽ học ở phòng nào, trên hay dưới lầu?…và điều nôn nao pha lẫn hồi hộp không thể thiếu được là thầy nào sẽ dạy môn gì trong niên học này?…
Buổi sáng thứ hai đầu tuần của tuần lễ đầu tiên, sau giờ chào cờ, chúng tôi ai nấy đã vào vị trí trong lớp, tiếng chuyện trò, bàn tán ồn ào như vỡ chợ. Thầy xuất hiện đi thẳng từ hành lang vào bàn Giáo sư (hồi ấy bậc Trung học không gọi là giáo viên như bây giờ). Ý nghĩ đầu tiên trong đầu tôi “Thầy này mới toanh”. Vẻ nghiêm nghị của Thầy làm cả lớp sờ sợ, im bặt, đứng nghiêm, trên từng khuôn mặt căng thẳng, lo lắng, hồi hộp; cả căn phòng như thiếu oxy nặng nề ngộp thở; những bạn quậy phá nhất lớp lúc này tự nhiên cũng nghiêm trang, không cục cựa quay tới quay lui. Nhìn bao quát cả lớp, Thầy mĩm cười, (nụ cười sao mà hiền từ, dễ mến mà cho mãi đến bây giờ khi hình dung lại tôi vẫn còn nhớ như in) cất tiếng: Các em ngồi xuống…Từ ánh mắt tràn đầy yêu thương, nụ cười hiền khô và giọng nói thật tình cảm làm chúng tôi thở phào nhẹ nhõm như trút được “gánh nặng ngàn cân” tuy chỉ xảy ra trong thời gian ngắn nhưng tưởng chừng dài cả “thế kỷ”.
Khuôn mặt sáng với đôi kính cận và nụ cười thường xuyên trên môi làm chúng tôi dễ gần gủi từ những giây phút đầu tiên. Niên khóa này tôi sẽ hướng dẫn các em môn Hóa học, môn này rất khó đối với những em biếng học và rất dễ đối với những em chăm chỉ, siêng năng. Kiểu nói “huề vốn” làm cả lớp cười ồ vui vẻ thoải mái. Không giới thiệu tên nhưng các bạn đã thì thầm chuyền tai nhau “Thầy Võ Ba”. Buổi học đầu tiên của Thầy trò chúng tôi thật ấn tượng khó quên. Những tháng ngày tiếp theo, Thầy đã đem hết tâm huyết một nhà giáo truyền đạt những kiến thức quý giá làm hành trang cho chúng tôi chuẩn bị cho những năm sau này bước vào đời. Sự quý mến đã gắn bó Thầy trò chúng tôi thành một nhóm khoảng hơn 10 người, những động cát dọc theo Vinh Phú – Vinh Thủy (nay là khu du lịch Đồi Dương) đã từng in dấu chân Thầy trò chúng tôi trong những lần picnic dã ngoại. Quán Thu Dung dưới dốc cầu Trần Hưng Đạo cũng đã từng chứng kiến nhiều lần Thầy trò chúng tôi tụ tập, vừa thưởng thức tài khéo léo nấu chè của cô chủ quán, vừa thi nhau kể chuyện tiếu lâm, tiếng cười đùa làm vang động cả một góc sân.
Ở trong lớp chúng tôi gọi bằng Thầy nhưng ra khỏi Trường thì được phép gọi bằng anh cho gần gủi, thân mật. Gọi Thầy là anh Hai, tức là anh cả trong nhóm mặc dầu Thầy tên Ba, còn anh Ba tức là Thầy giám thị Lương dù Thầy Lương là anh Hai trưởng nam trong gia đình; chúng tôi mỗi người đều có thứ bậc hẳn hoi: Tư, Năm, Sáu…tùy theo tuổi tác tháng năm sinh, riêng tôi hình như thứ Chín thì phải. Nhiều kỷ niệm đối với Thầy thời ấy có lẽ khó phai mờ trong tâm tưởng mỗi người chúng tôi… Rồi mọi việc đột ngột thay đổi, chúng tôi mỗi người một phương, mất liên lạc luôn với Thầy. Mấy năm sau tôi nghe nói Thầy làm việc ở Công ty sách, thiết bị trường học, rồi lại nghe nói Thầy đang giảng dạy tại Trung tâm tại chức, cũng nghe nói mà thôi chứ chưa một lần gặp và cũng vì bương chải với cuộc sống đầy khó khăn thời ấy nên không có điều kiện tìm Thầy.
Một buổi chiều, Thầy bất ngờ xuất hiện tại nhà tôi, cùng đi với một người đồng nghiệp dạy chung trường sau 1975, thật đột ngột và xúc động khi Thầy trò, anh em chúng tôi gặp lại nhau. Ngôi nhà tranh vách đất bé nhỏ không tiện để tiếp khách, phải khiêng bàn ghế ra ngoài sân. Hỏi ra mới biết, trên đường đi LaGi, ghé Hàm Thuận Nam thăm một người học trò tại chức, ra sau nhà thấy có cái bơm tay bơm nước từ giếng lên do Unicef tài trợ, người học trò nói do anh Nhân lắp đặt. Nhân nào? Hay là thằng em của Thầy? Em đưa Thầy tới nhà của Nhân. Vừa ngẫu nhiên, vừa như có sự sắp đặt vô hình để anh em chúng tôi tìm ra nhau. Thời gian ngắn ngủi không đủ để kể hết những tháng năm bặt tin vì Thầy phải vào LaGi trước khi trời tối. Cuộc hội ngộ đã làm tiền đề một lần nữa kết chặt tình cảm thầy trò, anh em chúng tôi những năm tháng sau này.
Ngày 30/4 cách đây hơn 15 năm, tôi đến thăm Thầy. Buổi sáng hôm ấy, ngôi nhà đối diện xéo xéo với Trường Phan Bội Châu đã có mặt một số học trò cũ trước năm 1975, Thầy tổ chức buổi tiệc nhỏ cùng học trò chung vui nhân ngày nghĩ, tôi là người ngẫu nhiên có mặt, lần này tôi được gặp thêm một số bạn học cùng lớp sau nhiều năm cách biệt và cũng là lần đầu biết mặt Cô Hoàng Lan, hình ảnh tôi còn nhớ mãi là Cô mở tủ lạnh lấy từng lon bia ra chiêu đãi chúng tôi với nụ cười thật tươi. Ý tưởng tổ chức ngày họp lớp hàng năm cũng được Thầy khơi dậy trong buổi gặp gỡ này, cộng với sự nhiệt tình của bạn Nguyễn Đức Phán, lần họp lớp đầu tiên cách đây hơn 15 năm được tổ chức. Trong suốt những năm tháng sau này, Thầy luôn là cầu nối gắn kết bạn bè chúng tôi lại với nhau. Tình cảm Thầy dành cho chúng tôi thật bao la, cho đến khi chúng tôi đã rời ghế nhà trường Thầy vẫn còn quan tâm tìm từng học trò cũ và tạo điều kiện để chúng tôi được gặp nhau. Thầy luôn là nhân tố tích cực, là động lực mạnh mẽ thôi thúc chúng tôi duy trì được những buổi họp lớp hàng năm và cho đến mãi bây giờ. Những gì Thầy đã dành cho chúng tôi thật quý báu, đáng trân trọng, khó mà diễn tả cho hết.
Tôi viết những dòng này trong ngày mà cả nước dành riêng tôn vinh Thầy Cô để tưởng nhớ về Thầy với lòng biết ơn sâu đậm. Thầy đã đi xa nhưng có lẽ ở một nơi nào đó Thầy vẫn luôn dõi theo chúng tôi trên từng bước đường đời. Xin mượn câu nói của nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy trong bài hát "Người Thầy" để bày tỏ những gì tôi muốn nói về Thầy: “Dẫu đếm hết sao trời đêm nay, dẫu đếm hết lá mùa thu rơi, nhưng ngàn năm, làm sao em đếm hết công ơn người thầy ....”
PhamDinhNhan