F Học sinh Trường Chính Tâm

HS TRƯỜNG TH CHÍNH TÂM


Tết ngay sau lưng rồi

Những hàng quán chất đầy hàng hóa phục vụ cho ngày Tết, đủ màu sắc hấp dẫn, níu chân mấy bà Nội trợ. Nhộn nhịp không kém là những vựa cây cảnh, mùa Xuân, ngày Tết như đang ngự ở nơi này. Muôn hoa đua nhau khoe sắc rực rỡ...
Tôi luôn thích những ngày giáp Tết. Tôi thích cái cảm giác tất bật, có rạo rực, có nôn nao... và bao giờ cũng vậy, trong lòng tôi lại rưng rưng hồi ức về những cái Tết xưa ở quê nhà. Miền Trung, những ngày giáp Tết tiết trời se lạnh, dễ thương chi lạ. Tôi, ngày nào cũng lấy đồ mới ra mặc vào ngắm nghía trước gương rồi lại giở từng tờ lịch đếm. Sao Tết lâu tới quá!
Sáng nào cũng vậy, mới tinh mơ, ngoài con đường đất đỏ 104 đã nhộn nhịp các cô, các bà và cả mẹ tôi nữa, gánh kẽo cà kẽo kẹt những mớ rau củ, bắp, bí... đủ thứ tất tần tật những gì có trong mảnh vườn nhà đem lên chợ Nam Phước trên thị trấn bán. Mảnh vườn nhà tôi rất rộng, ba tôi trồng đủ thứ từ bí, bầu, cà chua, cà rốt, rau cải, hành tỏi... Thứ nào cũng xanh tốt, trĩu quả. Ba chỉ toàn dùng phân xanh, phân bò ủ hoai và bánh dầu ngâm lâu ngày để bón cho rau màu.

Ảnh: Internet
Những ngày giáp Tết thật tuyệt vời với lũ nhóc chúng tôi! Chị em tôi dậy từ mờ sớm, chạy tót ra khỏi nhà mặc cho tiết trời đang lạnh. Điểm đến của chúng tôi là những chảo rang nổ ven đường. Ở đó đã có người ta lố nhố đứng vây quanh. Cái chảo gang to tổ chảng đã được nhóm lửa lên tự bao giờ. Ánh lửa nhảy nhót reo vui, tiếng nổ lốp bốp của những hạt lúa nếp thật vui tai.
Tôi hay mon men đứng gần sát chảo nhanh tay nhặt những hạt nổ quá đà văng ra ngoài cho ngay vào miệng. Chẳng thấm tháp gì với cái dạ dày chưa ăn sáng nhưng thật là thích. Chỉ khi nào nghe tiếng gọi ơi ới của Mẹ và thoáng thấy cái roi mót dứ dứ trên tay Mẹ, chị em tôi mới "dạ" to một tiếng rồi co giò chạy về.

Ảnh: Internet
Thú thật, trong những món bánh mứt Mẹ làm dịp Tết, tôi ghét nhất là món bánh nổ. Chẳng phải vì tôi không thích ăn nó mà vì tôi luôn phải ngồi nhặt những vỏ trấu còn dính lại trong hạt nổ. Ngồi nhặt mà luôn nhấp nhổm, mắt nhìn ra đường, ngoài ấy có khối trò vui mê hoặc.
Ba tôi cùng bà con trong xóm thịt bò rồi lại thịt heo chia nhau. Đem thịt về, ba và mẹ chế biến đủ thứ món. Thời bao cấp đói khổ thiếu thốn nhiều nên những ngày này quả là ngày hội quá lớn. Tôi sung sướng không tả xiết, trong giấc mơ tôi như vẫn còn nghe mùi thơm lừng của Tết!

Ảnh: Internet
Ba tôi làm nhiều loại bánh. Tôi thích xem Ba làm món bánh lăn. Món này làm từ bột nếp rang. Chị em tôi thích thú ngồi vây quanh Ba. Thỉnh thỏang Ba cho tôi cục bột nho nhỏ đã nhồi dẻo để tôi lăn một chiếc bánh nhỏ xinh nhưng cũng điểm đủ những hạt đậu phộng và mè rang, mùi nước đường nấu gừng thơm phức khiến tôi thòm thèm nhưng không dám ăn vụng vì Mẹ nói: “bánh để cúng Ông Bà rồi mới được ăn!”.
Chiếc bánh cuối cùng vừa làm xong, Ba tươi cười nhìn mấy chị em và chìa hai bàn tay ra. Lúc nào Ba cũng cố tình để dính trên tay ba những cục bột bánh dẻo thơm ngon. Chúng tôi cầm bàn tay ba gỡ bột bánh ăn ngon lành, ngon hơn cả ngày Tết ăn bánh. Tôi không chỉ gỡ. Tôi gặm tay Ba, một cảm giác sung sướng ấm cả người!

Ảnh: Internet
Ba đã đi thật xa, thật lâu rồi! mỗi lần nhớ lại, nước mắt tôi lại trào ra vì nhớ thương Ba!
Xa quê đã mấy chục năm, ký ức tôi vẫn vàng tươi vạt hoa cải trước sân nhà, có ánh lửa bập bùng tí tách của nồi bánh tét đêm giao thừa, có tiếng pháo nổ đì đùng khắp nơi làm con chó nhà tôi Tết nào cũng biệt dạng một tuần sau mới dám về. Tôi nhớ cả giàn hoa giấy rực rỡ khoe màu ngoài ngõ hay thấp thoáng dáng ai... nấp nắng.

Lệ Nga

Những chuyến xe chở Tết về quê

Cứ mỗi khi nghe cơn gió chướng xôn xao trên đất Sài Gòn là lòng tôi lại nôn nao cái Tết quê nhà. Bôn ba nơi xứ lạ kiếm tìm miếng cơm manh áo mà lòng vẫn không nguôi ngoai cái khắc khoải bồn chồn khi nghĩ về cánh đồng tuổi dại, con mương sình bùn, mái lá run mình rúm ró sau mỗi cơn vần vũ của đất trời…

Mặc dù Sài Gòn đầy bao dung, hào sảng cưu mang những con người tứ xứ nhưng cũng không khỏa lấp được lòng quê dậy đầy mỗi khi năm hết tết đến.

Đầu chạp mẹ đã điện thoại hỏi: "Chừng nào về Tết vậy con? Giờ xe cộ nhiều, vợ chồng con cái về xe khách cho ba mẹ vững bụng nhe hông!".

Mẹ cúp máy rồi mà cái buồn thấm thía như vo tròn lấy tôi. Dù đã là 35 tuổi, dù đã có hai mặt con, dù đã bươn chải kiếm tiền giữa biết bao là thác ghềnh của cuộc mưu sinh từ hơn chục năm nhưng hình như với mẹ con vẫn mãi là bé bỏng.

hoavantho.jpg
Hễ thấy những luống vạn thọ của ba đâm nụ là thấy Tết

Sài Gòn những ngày cuối năm, Sài Gòn của những rực rỡ sắc màu,  Sài Gòn của những lộng lẫy nhưng Sài Gòn cũng giấu kín trong thẳm sâu tâm hồn những nôn nao khắc khoải Tết quê, những ước ao trở về đến quay quắt của những đứa con xa xứ. Để rồi những chuyến xe khách sẽ chở về quê những phận đời mang theo những kí ức bôn ba Sài Gòn. Tôi cho đó là những chuyến xe chở đầy Tết quê, lòng quê về với những nẻo quê xa ngái mịt mù.

Năm trước đây, cả nhà tôi sau khi đã yên vị trên những băng ghế nằm thoải mái được phục vụ thêm chai nước mát lành và cái khăn chùi mặt vệ sinh là xe rời bến với thời gian đã định sẵn. Vợ tôi thì thầm: Lên được xe là đã thấy Tết quê! Tôi cảm nhận trong mắt em sự nôn nao trở về với những kí ức Tết của tuổi dại, phần kí ức mà vì do sinh kế chúng tôi đã phải tạm gác đi cho những ngày tháng nhọc nhằn nơi xứ lạ quê người.

Tôi nhìn xung quanh, mỗi hành khách có những cách khác nhau mang Sài Gòn về cho Tết quê thêm đủ đầy, cho bàn gia tiên thêm ấm áp. Chưa bao giờ tôi thấy lòng người lại có nhiều sự nối kết đến như vậy như trên những chuyến xe Tết. Phải chăng chính vì đó là chuyến xe của sự trở về của những tâm hồn quê?

Nhìn qua ô cửa, sắc vàng của những khoảng sân trồng đầy hoa vạn thọ của nhà ai đó ven đường luôn làm tôi nhớ ba da diết. Ba tính kĩ tháng ngày làm đất gieo hạt để những luống hoa vạn thọ rực rỡ đúng vào dịp Tết. Hoa của ba trồng sẽ được trang trọng cắm vào bình hoa đặt lên bàn thờ cúng gia tiên. Một số được ba trồng trong chậu sẽ được trang trí nhà cửa. Bông vạn thọ ba trồng không bán, mẹ cắt hoa tặng hàng xóm chưng Tết nhất. Lâu ngày thành nếp, bà con trong xóm hễ thấy những luống vạn thọ của ba đâm nụ là thấy Tết.

Bên cạnh chúng tôi câu chuyện tết quê luôn là đề tài chung để nhiều người góp phần làm cho hành trình dài trở nên ngắn lại. Hai đứa con tôi trố mắt ngạc nhiên thích thú khi nghe được những tập tục hay, những câu chuyện lạ từ những hành khách trên chuyến xe để rồi chúng sẽ đem những điều lí thú ấy vào bài văn mà cô cho đề trước hôm nghỉ Tết.

Chốc chốc vợ tôi lại trầm trồ khen cây mai nhà ai ven đường đơm đầy những nụ xanh biếc. Em thì thầm bên tai tôi kỉ niệm cũ. Em nhớ ngày xưa có anh con trai hàng xóm qua nhà tỉ mẫn lặt lá mai giúp. Đâu có lãng mạn gì lắm đâu vậy mà em thương em quý rồi thành vợ thành chồng, rồi cùng bươn bả lên Sài Gòn lập nghiệp, sinh con.

Mà đâu phải chỉ gia đình tôi, hình như mọi hình ảnh lướt qua nhanh hai bên ven  đường đi luôn gợi nhắc trong lòng mỗi hành khách những kí ức khác nhau về tết quê, những kỉ niệm xưa cũ bỗng được khơi màu tinh khôi để lòng mỗi người càng thêm náo nức. Trên những chuyến xe là những khuôn mặt Tết rất khác nhau nhưng lại là những mảnh ghép hoàn hảo cho bức tranh Tết quê thêm thắm sắc màu. Gia đình tôi cũng là một mảnh ghép ấy, chúng tôi đang trở về với Tết.
Trầm Thanh Tuấn

Tết rồi, về thôi

Thứ bảy, 11/1/2020 | 11:00 GMT+7

Những tờ lịch của tháng Chạp đang vơi dần, Tết rồi cũng men theo gió Xuân mà về. Với những người đi làm, đi học xa quê, hơn lúc nào hết, vào những dịp cuối năm, Tết đến Xuân về, trong lòng lại háo hức trở về quê hương, về với mẹ cha, anh em, xóm làng thân thích.

Guồng quay thời gian là bất tận, không có điểm dừng, từ ngày này sang tháng khác. Con người luôn luôn chuyển động theo vòng quay ấy. Tết đến, con người mới hay thời gian trôi nhanh quá, vết thời gian sẽ đếm bằng những sợi tóc hoa râm, những vết chân chim trên khóe mắt... Thời gian cũng khiến con người ta nuối tiếc nhiều nhất. Một năm có chừng bấy nhiêu ngày, đâu phải chừng ấy ngày chúng ta đều hạnh phúc, trọn vẹn? Tết về để mỗi chúng ta soi mình lại, ước vọng thêm một mùa Xuân tươi mới...
Bao hân hoan, rạo rực ấy nói sao cho đủ nỗi lòng của những người con xa quê móng ngong mỗi dịp Tết đến Xuân về? Dẫu có trăm nghìn nỗi nặng trĩu lo âu, bộn bề chất chứa ở xứ lạ nhưng khi nghĩ đến quê, lòng ta an yên đến lạ. Xách vali bước ra ga tàu, đôi chân thôi thúc, tim đập rộn ràng. Gặp muôn vàn gương mặt xa lạ nhưng ta ngỡ thân quen tự khi nào. Là chú bảo vệ vẫn đang mặc trên người bộ đồng phục của nghề, tay ôm chậu mai vàng lên xe lỉnh kỉnh đồ đạc, ai nhìn vào chú đều “thanh minh”: “Mấy đứa nhỏ nhà tui mê mai lắm, mà xứ Bắc không có mai, nên mua về cho chúng nó vui”. Hay cô giúp việc, môi nở nụ cười tươi rói, tay ôm khư khư túi đồ trước ngực thì thầm rằng “chỗ này chắc cũng đủ đóng học phí cho tụi nhỏ một kỳ”. Chạm gặp người cha, người mẹ như chú bảo vệ, cô giúp việc khiến ai nấy đều rưng rưng nghĩ về đấng sinh thành của mình. Cô chú là mẫu số chung về lòng yêu thương, tình phụ, mẫu tử. Tết rồi, ta về với cha mẹ thôi!
Cả năm ta sống ở phố với những bộn bề, ồn ào và đông đúc, chỉ mong mỗi dịp Tết đến để được về nhà, để được nghe tiếng chim reo ca mỗi sớm mai, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa inh ỏi... Quên làm sao được không khí Tết quê quây quần, nghèo nhưng mà đầm ấm. Hai chín, ba mươi Tết theo mẹ đi chợ ngắm thỏa thuê cho đã con mắt rồi sà vào hàng bánh đúc nóng hôi hổi. Đó là món quà của tuổi thơ, của chợ quê ngày Tết mà đứa con nít nào cũng thích. Thèm được bố sai đi cắt lá dong, chẻ dăm ba chiếc lạt để gói giò, gói bánh, rồi được bố tận tay chỉ từng bước gói thành một chiếc bánh tròn trịa thơm phức. Mấy chị em quây quần bên nồi bánh chưng chơi bài tá lả, cãi nhau ỏm tỏi, nô đùa cho đến đêm muộn...
Nồi nước tắm của mẹ vào mỗi chiều cuối năm cho dù đi xa bao nhiêu lâu ta cũng chẳng thể nào quên được. Nồi nước lá yêu thương có mùi hương của sả, hương nhu, lá tre và lá mùi già. Nồi nước lá khiến những đứa con của mẹ thơm tho hơn trong ngày Tết, theo đó là ước vọng, gửi gắm trong năm mới của mẹ mong con cái của mình được bình an. 
Theo guồng quay, Tết ở quê hay ở phố bây giờ cũng đôi chút khác nhiều so với xưa kia. Mọi thứ đều hiện đại và đủ đầy hơn rất nhiều. Từ việc mua sắm hàng hóa cho tới ăn chơi dịp Tết. Siêu thị, trung tâm thương mại mọc lên khắp nơi với trăm nghìn mặt hàng, sản phẩm đủ loại cho mọi người mua sắm... nhưng với lòng quê, gia đình mãi luôn không thay đổi. Quê hương, gia đình vẫn ở đó, chào đón thân thương những đứa con nơi xa trở về, đoàn tụ...
Những cánh đào, cánh mai đang rung rinh với phố Xuân, hé mở ra bao ước vọng... Tết rồi, về thôi! 

Những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù

Từ những ngôi đền cổ xa xôi đến nhà thờ Dracula, những địa điểm đến đầy bí hiểm này nằm rải rác khắp nước Anh.

Nhà thờ St Mary, Whitby North Yorrkshire 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 1
Nhà thờ St Mary Whitby là nhà thờ Dracula nằm trên rìa của vách đá ở thị trấn North Yorkshire, nơi các ngư dân chuyên sống bằng nghề đánh bắt cá. Sát cạnh đó là Tu viện Whitby đã bị bỏ hoang trong nhiều thập kỷ. Tu viện này nằm rất gần với vách đá, trở nên hoang tàn sau vụ lở đất và đầy những ngôi mộ cổ. Dựa trên nghĩa địa này, tiểu thuyết kinh dị Dracula của Bram Stoker đã ra đời vào năm 1897. Stoker mô tả Dracula di chuyển qua nghĩa địa và lởn vởn trên các ngôi làng và bắt cóc phụ nữ, trẻ em…
Dartmoor, Devon 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 2
Wistman's Wood, nằm ở độ cao 1.200 ft tại Dartmoor ở Devon, là phần còn lại vô cùng quý giá của khu rừng cổ đại bao phủ phần lớn bãi hoang. Khu rừng này được cho là đã tồn tại 9.000 năm, với những cây sồi xù xì, còi cọc, mọc từ giữa những tảng đá granit trải thảm rêu phong. Hiện khu rừng này đã trờ thành một khu bảo tồn thiên nhiên, nơi du khách cảm thấy như quay trở về nhiều thế kỷ trước và hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi thế giới hiện đại.  
Lâu đài Dunluce, Ireland 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 3
Bạn sẽ có cảm giác như đang bước ra một thế giới siêu thực khi băng qua cây cầu đến lâu đài Dunluce. Lâu đài Dunluce nằm trên một mỏm đá bên cạnh rìa của vách đá ở Bắc Ireland, luôn chìm trong những hạt mưa nhỏ đang lất phất bay. Mặc dù trước đây tòa lâu đài này rất hoành tráng, nhưng đến nay chỉ còn là những tàn tích của kiến trúc kiểu gothic với bức tường phía bắc đã sụp xuống biển vào thế kỷ 18.
Castlerigg Stone Circle, Cumbria 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 4
Vòng tròn đá Castlerigg ở Keswick, Cumbria là nơi người Anh cổ đại gặp nhau trong các nghi lễ hơn 5.000 năm trước. Những tảng đá khổng lồ này nằm tại Lake District gần Helvellyn, đây là một trong các vòng tròn đá lâu đời nhất ở Anh, được xây dựng trong khoảng 3200 trước Công nguyên và hiện nó đã trở thành một thánh địa.
Đồi Hambledon, Dorset 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 5
Ngoài là một nơi có phong cảnh rất đẹp có vẻ hoang dã và đầy nắng gió, Hambledon còn là một nơi chôn cất cho các gia đình quý tộc trước khi trở thành một pháo đài chiến đấu ở vùng trung tâm của nước Anh cổ đại. Hiện nay Hambledon đã trở thành một ví dụ điển hình nhất về một ngọn đồi thời kỳ đồ sắt, với những khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời và những kiến trúc từ thời tiền sử được bảo tồn tốt nhất ở châu Âu.
Pháo đài này đã bị bỏ hoang vào khoảng năm 300 trước Công nguyên. Nhưng trong 2.000 năm, đây là một trong những khu định cư quan trọng nhất ở miền Tây. Hiện tại nó là Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia với nhiều loài thực vật hoang dã quý hiếm và 28 loài bướm đặc biệt. 
St Nectan’s Glen, Cornwall 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 6
Trong hàng ngàn năm, sông Trevillet đã chạm khắc vào vách đá cứng tạo thành một thác nước hùng vĩ chảy xuống thung lũng bên dưới. Phong cảnh ấn tượng này đã trở thành huyền thoại và thu hút nhiều tộc người trong đó bao gồm cả người La Mã kéo đến tế lễ và tôn thờ tinh thần của dòng sông. Theo truyền thuyết Vua Arthur và các hiệp sĩ của ông đã được ban phước trong nước thánh từ thác nước này trước khi tìm kiếm Chén Thánh.
Đến nay thác Glen được giới khoa học quan tâm đặc biệt bởi quần thể động vật và thực vật quý hiếm sinh trưởng xung quanh nó.
Glencoe, vùng cao nguyên Scotland 
Huyền bí những điểm đến bí ẩn nhất xứ sở sương mù - 7
Thác nước cùng dòng sông chảy qua ngọn núi lửa lộng gió, hoang sơ này và đổ xuống bên dưới khiến Glencoe trở thành một trong thung lũng lãng mạn nhất Scotland. Đồng thời ngọn núi này cũng là một trong những khu vực trượt tuyết tốt nhất nước. Mặc dù rất đẹp và hùng vĩ nhưng Glecoe cũng là một địa danh có nhiều truyền thuyết u ám nhất. Những tiếng gió hú qua thung lũng giống như tiếng kêu rên của 80 linh hồn thuộc gia đình MacDonald, bị tàn sát tại đây vào năm 1692. Các vụ giết người này được cho là có liên quan đến sự cạnh tranh lâu dài giữa 2 gia tộc MacDonalds và Campbells.
Sưu tầm

Truyện cười ngày tết

Chuyện kiêng ngày Tết
Một giọng đàn ông hoảng hốt gọi đến sở cảnh sát đêm giao thừa:
- Xin báo cho 113 gấp. Tôi ở số nhà… Căn hộ của tôi vừa bị kẻ gian bẻ khoá, chúng đã lấy sạch tiền, vàng…
- Ông và gia đình bình tĩnh và cố giữ nguyên hiện trường. Chúng tôi sẽ đến ngay.
- Ấy, từ từ cũng được, qua mồng 3 các ông hãy đến, nhà tôi vẫn kiêng người lạ xông đất.
- !?
Kiêng ngày Tết
Cô dâu làm cỗ Tết
Chế tác, bày biện xong xuôi, cô quay ra hỏi chồng.
- Anh ấn tượng nhất với món nào em nấu?
Anh chồng đáp
- Món kia!
- Món kia là món gì?
- Anh cũng không biết gọi nó là… miến hay… cháo nữa!
- !?
Quà Tết ý nghĩa
Một bà già vào shop, hỏi cô nhân viên bán hàng:
- Tôi muốn có một món quà tặng cho con trai tôi nhân ngày Tết!
- Thưa, anh ấy như thế nào ạ để cháu tư vấn cho bà?
- Con trai tôi cao 1,8m, đẹp trai, khỏe mạnh, độc thân. Hơn nữa là thứ gì nó cũng có rồi, nên tôi chẳng biết mua tặng nó thứ gì nữa!
- Vậy bác có thể tặng anh ấy… số điện thoại của cháu được không?
- !?
Nhắc khéo
Tết đến, bố mẹ đi chúc Tết chỉ còn Tý ở nhà.
Một lúc sau có khách tới nhà chúc Tết, Tý ra đón khách:
- Năm mới cháu chúc bác sức khỏe dồi dào, vui vẻ quanh năm ạ!
- Cảm ơn cháu. Thế bố mẹ cháu có ở nhà không?
- Dạ không ạ, bố mẹ cháu đi chúc Tết rồi, chỉ còn cháu với con lợn đất này ở nhà thôi ạ!
Vợ đẹp vì sắp Tết
Cô vợ đi chợ về hớn hở khoe với chồng:
- Anh ạ, hôm nay rất nhiều người khen em xinh và trẻ hẳn ra.
Anh chồng gật gù đáp:
- Ừ, thì sắp Tết mà.
- Tết thì có nghĩa gì với sắc đẹp của em?
- Thì sắp Tết nên ngoài đường thiếu gì kẻ say…
- !?
Sắp Tết mà
Món quà nhỏ nhưng đủ dùng cả năm
Thấy bố mẹ vừa về đến ngõ, cu Tý chạy ra hớn hở khoe:
- Mẹ ơi! Sáng nay có cô Tũn ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”.
Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay:
- Món quà gì thế con?
- Dạ, một quyển lịch!
- !?
Nhận tiền lì xì
Bác mừng tuổi đứa cháu lớp 1:
- Bác có một tờ 20k và tờ 50k, cháu lấy tờ nào?
- Cháu lấy tờ màu xanh ạ
- Tại sao cháu thích tờ xanh?
- Vì màu xanh là màu hy vọng
Lúc này ông bác rất vui vì đứa cháu lớp 1 biết nghĩ như vậy!
- Vậy cháu hy vọng gì?
- Cháu hy vọng bác cho cháu nốt tờ kia ạ!
Giá phạt cũng tăng theo ngày Tết
Hai chị hàng xóm đang cãi nhau rất to, một chị văng tục.
Đúng lúc ấy anh tổ trưởng tổ dân phố đi qua nghe thấy vậy bèn phạt chị ta 50 nghìn đồng. Chị hàng xóm tỏ ra không phục cho lắm bèn hỏi anh tổ trưởng:
- Tại sao tháng trước tôi cũng chửi bà ta mà chỉ bị phạt có 30 nghìn đồng?”
Anh tổ trưởng cười:
- Chị không biết gì à?
- Biết gì? - Người phụ nữ hỏi lại.
- Tết đến mọi thứ đều tăng nên giá phạt cũng tăng theo.
- !?!
Sưu tầm

Tiên cảnh kiếm hiệp đẹp nao lòng trên núi Nga Mi


06/01/2020
(VoThuat.vn) – Sở hữu nét đẹp tựa tiên cảnh, núi Nga Mi không chỉ là đại bản doanh của môn phái Nga Mi trứ danh trong các bộ phim kiếm hiệp, đây còn là địa điểm du lịch nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay.

Núi Nga Mi (thường gọi là Nga Mi sơn hay Đại Quang Minh sơn) là một trong 4 ngọn núi Phật giáo thiêng liêng của Trung Quốc, nằm ở phía Trung Nam tỉnh Tứ Xuyên. Ngọn núi này có độ cao 3.099 m, với đỉnh cao nhất là Vạn Phật, nằm trên ngọn núi chính có tên Kim Đỉnh. Năm 1996, ngọn núi này đã được đưa vào danh sách Di sản Thế giới của UNESCO.

Từ thời xưa, nơi này đã nổi tiếng với cảnh đẹp ngoạn mục và những công trình đạo Phật, đạo Giáo. Các đền chùa trên núi được xây dựng từ thời Đông Hán và đạo Phật được đưa tới đây trong thời nhà Tấn.

Theo tài liệu lưu trữ, vào thế kỷ 16 và 17, các ngôi chùa trên núi Nga Mi là nơi tập luyện võ thuật với trường phái riêng. Nhắc đến Nga Mi, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến bộ truyện Ỷ thiên Đồ long ký của nhà văn Kim Dung, mà theo đó, Nga Mi cũng là một trong một trong những môn phái của võ lâm Trung Nguyên.

Ngày nay, núi Nga Mi đã trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách. Ngay cả vào những ngày thời tiết giá lạnh như mùa đông năm ngoái hay thời điểm hiện tại nhiệt độ chỉ dao động trong khoảng 0-5 độ C, Nga Mi vẫn có rất nhiều khách đến tham quan bởi ngọn núi này ngập trong tuyết trắng lại vô cùng ảo diệu.

Nhiệt độ xuống thấp, tuyết rơi phủ trắng xóa khiến Nga Mi trở nên đẹp kỳ ảo. Từ nóc những ngôi nhà xung quanh, cây cối cho đến bậc cầu thang, lan can đều duy nhất một màu trắng. Các cành cây, ngọn cây đều được bao phủ bởi lớp tuyết dày, giống những bông “hoa tuyết”.

Phía trên núi Nga Mi có ngôi chùa Vạn Niên mang đậm dấu ấn Đạo giáo. Trong khuôn viên ngôi chùa này lại chia ra gồm chùa đồng, chùa bạc và chùa vàng. Phía trước sân là bức tượng Phổ Hiền Bồ Tát cao 7,35 m, nặng 62 tấn đúc từ đồng và mạ vàng bên ngoài, được xem là bức tượng Phật cao nhất thế giới.

Sưu tầm

Bãi cọc gỗ gần 1.000 năm tuổi

Phát hiện khảo cổ chấn động: Bãi cọc gỗ gần 1.000 năm tuổi - lắng hồn núi sông

Cập nhật lúc 07:32, Thứ tư, 01/01/2020
print 

(BVPL) - Bãi cọc gỗ gần 1.000 năm tuổi vừa được khai quật tại thôn Cao Quỳ, xã Liên Khê (Thủy Nguyên, Hải Phòng) là một phát hiện rất quan trọng, làm thay đổi nhận thức về chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của quân, dân nhà Trần trước quân xâm lược Nguyên Mông.


Nhận thức mới về chiến thắng Bạch Đằng
Vào chiều ngày 1/10/2019, trong quá trình đào đất trồng cau ở khu vực Mả Dài, thuộc cánh đồng Cao Quỳ (xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng), một người dân phát hiện hai cây gỗ nằm cách bề mặt chừng 0,5-0,7m. Trên cơ sở phát hiện của người dân xã Liên Khê, Viện Khảo cổ học (thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) đã tổ chức 2 đợt khảo sát và phát hiện 9 cọc gỗ liên quan đến chiến trường Bạch Đằng năm 1288.
Đến ngày 22/11/2019, được sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Khảo cổ học phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao TP Hải Phòng tiến hành khai quật khảo cổ tại khu vực cánh đồng Cao Quỳ thuộc xã Liên Khê. Kết quả, tại 3 hố được khai quật, các nhà khảo cổ học phát hiện 27 cọc gỗ khác. Kết quả giám định cho thấy, các cọc gỗ này có niên đại từ thế kỷ 13 - 15. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện 24 hố đất đen, phần lớn là các hố chôn cọc, cùng một số chứng tích đồ sắt và đất sét. Từ kết quả khai quật khảo cổ và niên đại tuyệt đối mẫu cọc gỗ được phát hiện, kết hợp các nguồn tư liệu lịch sử, bước đầu, các nhà khoa học nhận định: Bãi cọc Cao Quỳ là trận địa có niên đại cuối thế kỷ 13 và liên quan đến trận chiến chống quân Nguyên- Mông trên sông Bạch Đằng vào năm 1288 của quân dân nhà Trần.
Các cọc gỗ gần 1000 năm tuổi liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 vừa được phát hiện ở Hải Phòng. 
Vào chiều ngày 20/12, đoàn chuyên gia của Viện Khảo cổ học, Hội Sử học và Viện Địa chất Việt Nam cùng đại diện lãnh đạo TP Hải Phòng thực địa tại bãi cọc cũng có nhận xét, các cọc cùng có chất lượng còn lại tốt hơn nhiều so với cọc tại bãi cọc Quảng Yên (Quảng Ninh). Bãi cọc được Trần Quốc Tuấn đóng dưới lòng sông Đá Bạc, tại ngã ba dẫn vào con lạch thông ra sông Giá, để ra cửa sông Bạch Đằng. Qua gần 1000 năm, phù sa bồi đắp, dòng chảy thay đổi, đặc biệt tác động của con người nên lòng sông bị thu hẹp và bãi cọc xưa giờ thành một phần cánh đồng.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng, bãi cọc ở cánh đồng Cao Quỳ giúp các nhà khoa học, nghiên cứu, người dân cả nước có nhận thức mới đúng đắn, đầy đủ, khách quan, sát thực hơn về trận chiến Bạch Đằng năm 1288. Phát hiện này khẳng định: Hải Phòng chính là nơi từng diễn ra các trận đánh và có đóng góp quan trọng trong chiến dịch chống quân xâm lược Nguyên Mông của quân dân nhà Trần.
Từ đó, thay đổi quan điểm trước đây là trận chiến Bạch Đằng chỉ diễn ra tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Mà đây là chiến dịch có quy mô rất lớn, diễn ra ở nhiều địa bàn… Chiến thắng này không chỉ thể hiện hào khí Đông A, niềm tự hào, tự tôn dân tộc Đại Việt, mà còn mang ý nghĩa quốc tế. Chính từ thất bại tại Bạch Đằng, vó ngựa quân Nguyên Mông phải ngừng mở rộng xâm lược các nước Đông Nam Á và Nhật Bản….
 GS.TS Nguyễn Quang Ngọc cũng nêu ý kiến: Từ phát hiện mới này, có nhiều căn cứ cho thấy Sở Chỉ huy chiến trường của chiến dịch Bạch Đằng năm 1288 khả năng cao được đặt tại khu vực Khu di tích Bạch Đằng Giang (thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên) hiện nay. Việc phát hiện bãi cọc Cao Quỳ cho thấy nhiều khả năng các trận địa cọc tại Quảng Yên hiện nay là vị trí cuối trong trận địa do quân ta giăng ra.
Theo GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, với phát hiện mới này, giới nghiên cứu sẽ phải sắp xếp, hình dung, nhận thức lại nhiều vấn đề về trận Bạch Đằng lịch sử. Trước đây chúng ta dựa vào sách và các mô tả rất trừu tượng, các nhà khoa học phải tưởng tượng ra với một điểm “neo” là bãi cọc được phát hiện ở Quảng Yên (Quảng Ninh), và các nghiên cứu đều xoay quanh bãi cọc đó.
Qua bãi cọc ở Quảng Yên đã cho thấy ông cha ta không đóng cọc gỗ ở lòng sông Bạch Đằng mà đóng ở các lạch triều, dồn đội hình địch lại, sau đó dùng kế “hỏa công” tiêu diệt các thuyền địch. Việc phát hiện bãi cọc ở Cao Quỳ cho thấy trận địa này nằm rất gần cửa Bạch Đằng, có một lạch triều chạy qua đây. Rất có thể đây là một bãi cọc còn lớn hơn bãi cọc tìm thấy ở Quảng Yên. Vì thế, có lẽ chưa thể khẳng định trận đánh chính nằm ở bãi cọc Quảng Yên hay Cao Quỳ.
Từ trước, có nhiều ý kiến về việc xác định trận Bạch Đằng ở Quảng Ninh hay ở Hải Phòng. Nay có thể khẳng định, trận Bạch Đằng chủ yếu dựa vào địa thế dân hai bên bờ sông, hai địa phương đều có đóng góp. Xét về cấu trúc địa chất, việc ém quân bên Thủy Nguyên phù hợp hơn vì ở đây có núi non phù hợp với việc phục binh, bên Quảng Yên thì trống trải. Có khả năng lớn đây là nơi quân ta dụ địch vào để đánh.
“Đây là một di tích vô cùng quý giá. Ý tưởng xây dựng một bảo tàng tái hiện lại trận chiến Bạch Đằng sẽ làm sống lại khí thế hào hùng của thời chống quân Nguyên Mông, tái hiện lại sự đóng góp to lớn của nhân dân trong việc xây dựng trận địa này. Làm sao quân đội có thể lên rừng chặt cây gỗ rồi chuyển về, làm sao giữ được bí mật khi nơi đây cách Vạn Kiếp có mấy chục cây số, quân Nguyên Mông đóng ở đó nhưng không biết về trận phục kích?; Làm sao quân đội thời Trần biết được lúc nào triều lên, triều xuống mà đây là chế độ bán nhật triều (một ngày thủy triều lên, xuống 2 lần), phải có sự giúp đỡ của nhân dân. Những điều đó nếu được tái hiện ở bảo tàng sẽ giúp thể hiện nghệ thuật quân sự của cha ông và đóng góp của nhân dân ở trận chiến lịch sử Bạch Đằng. Việc phát hiện bãi cọc ở Cao Quỳ đã có thêm căn cứ khoa học để phát huy hơn nữa truyền thống ấy...”, GS.TSKH Vũ Minh Giang đề nghị.
Cần có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ bãi cọc không bị  xâm phạm
GS.TSKH Vũ Minh Giang cũng đề nghị thành phố Hải Phòng cần có biện pháp để bảo vệ bãi cọc không bị xâm phạm. Hải Phòng cần triển khai ngay biện pháp bảo tồn và phát huy di tích; phải đưa ra khung pháp lý bảo vệ như hoàn thiện các thủ tục để đưa bãi cọc vào di tích cấp thành phố. Bên cạnh đó, phải có cách làm tái hiện lại trận chiến thắng Bạch Đằng trên đất Hải Phòng để giáo dục cho các thế hệ.
Còn TS. Lê Thị Liên, nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu khảo cổ học dưới nước, Viện Khảo cổ học cho rằng: Phát lộ bãi cọc Cao Quỳ là phát hiện vô cùng sáng giá đối với ngành khảo cổ. Chiến thắng Bạch Đằng không chỉ là niềm tự hào của dân tộc mà mang dấu ấn quan trọng trong lịch sử thế giới. Do đó, từ lâu nay, các nhà nghiên cứu vẫn để công tìm kiếm những di tích, hiện vật... liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng, đặc biệt bên khu vực sông Bạch Đằng phía Hải Phòng.
Đối với di tích này, sau khi làm hàng loạt các xét nghiệm cho thấy chứng cứ rõ ràng về bãi cọc liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Nếu tiếp tục theo hướng này, có thể tìm được nhiều hiện vật, chứng cứ hơn nữa liên quan đến trận chiến ở khu vực này.
Bãi cọc Cao Quỳ là cơ sở quan trọng góp phần chứng minh chiến thắng Bạch Đằng là chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Thế trận chống giặc ngoại xâm là thế trận “thiên la địa võng”, thế trận của toàn dân chứ không phải của riêng quân đội chính quy. Kiểu cắm cọc tại di tích cho thấy, đây không phải nhằm để phá vỡ tàu thuyền mà để làm hẹp dòng chảy, vừa để phòng thủ, che chắn, cũng để dồn quân giặc vào bẫy của quân ta...
Đề xuất công nhận bãi cọc Cao Quỳ là di tích quốc gia
Chủ tịch UBND TP Hải Phòng - Nguyễn Văn Tùng cho biết, việc bãi cọc bằng gỗ đã phát tích tại cánh đồng Cao Quỳ là sự kiện đặc biệt quan trọng, bãi cọc có nhiều liên quan đến 3 cuộc chiến thắng oanh liệt trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử của cha ông ta, đó là: năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán; năm 981, Lê Đại Hành đại thắng quân Tống và năm 1288, Trần Hưng Đạo đại thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Khu vực bãi cọc Cao Quỳ, xã Liên Khê, cùng với khu di tích Bạch Đằng Giang sẽ là một địa chỉ đỏ để giáo dục và hun đúc truyền thống cách mạng cho các thế hệ mai sau.
Nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng, thành phố nên mở rộng phạm vi khảo sát; có thể khai thác bãi cọc thành khu công viên, di tích, nơi chứng tích đầy đủ nhất về trận chiến Bạch Đằng, có thể xây dựng rừng lim để tạo cảnh quan xung quanh và mong lãnh đạo thành phố coi đây là cách triển khai lâu dài, bền vững; có kế hoạch để bảo vệ di tích một cách khoa học, từ đó phát huy giá trị của di tích để làm nơi sinh hoạt văn hóa cho nhân dân.
Còn Bí thư Thành ủy Hải Phòng - Lê Văn Thành yêu cầu UBND thành phố chỉ đạo Sở Văn hóa và Thể thao khẩn trương triển khai thủ tục công nhận di tích lịch sử cấp thành phố; sớm xúc tiến các thủ tục đề nghị công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt cho bãi cọc Bạch Đằng tại khu vực cánh đồng Cao Quỳ.
Hoàng Hưng

Nước Mặn - nơi phôi thai của chữ Quốc ngữ

SGGP 
Theo cố Giáo sư Phan Huy Lê (1934 - 2018), sự ra đời của chữ Quốc ngữ như một dòng sông được tạo nên từ nhiều con suối, mà suối nguồn của nó ở Nước Mặn - một đô thị cổ tại Bình Định. 
Một góc đô thị cổ Nước Mặn, nơi “thai nghén” chữ Quốc ngữ. Ảnh: NGỌC OAI
Một góc đô thị cổ Nước Mặn, nơi “thai nghén” chữ Quốc ngữ. Ảnh: NGỌC OAI
Hơn 400 năm trước, quan trấn thủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa đã có công cưu mang, đưa 3 vị thừa sai Dòng Tên, gồm: Francesco Buzomi (người Italy) và 2 cộng sự là Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Christoforo Borri (Italy) và 1 tu huynh (người hầu cận của linh mục Buzomi) đang gặp nạn ở cảng Hội An về Quy Nhơn (năm 1617). Theo các tài liệu chép lại, ông Trần Đức Hòa dùng thuyền, kiệu và cả voi để đưa rước các thừa sai về, thiết đãi như những thượng khách.
Về đến phủ Quy Nhơn, 3 vị thừa sai xin được ra Nước Mặn (nay là làng An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Định) để đặt cư sở truyền giáo. Về sau, người dân khai quật được tại vườn nhà của gia đình ông Võ Cự Anh (làng An Hòa) nền móng di chỉ đặt cư sở truyền giáo của 3 vị thừa sai trên. Gia đình ông Võ Cự Anh nhiều đời làm nghề dạy học. Ông cũng là người đam mê sưu tầm, lưu giữ các tài liệu liên quan đến nguồn gốc, lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ.
Ông Võ Cự Anh kể, di chỉ Nước Mặn trước kia là một vùng rộng lớn nằm ở hạ nguồn sông Kôn. Thời nhà Nguyễn (khoảng thế kỷ XVII), cảng thị Nước Mặn là một trung tâm thương mại, kinh tế và văn hóa phồn thịnh nhất ở đàng trong. Thời ấy, sinh sống ở Nước Mặn có người Việt Nam, Chăm Pa và một nhóm người Minh Hương (Trung Quốc) di cư đến. Nhờ chính sách mở cửa của chúa Nguyễn nên thương thuyền Hà Lan, Bồ Đào Nha, Italy, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines… ghé đến Nước Mặn rất đông để buôn bán, trao đổi hàng hóa với người bản địa.
Theo nghiên cứu của ông Võ Cự Anh, năm 1618, các linh mục Buzomi, Pina, Borri xin ra khỏi phủ Quy Nhơn chọn Nước Mặn để đặt cư sở. Những ngày đầu đến Nước Mặn, nghe thổ dân nói chuyện, các đạo sĩ phương Tây cảm thấy vô cùng thất vọng. Bởi lẽ người Việt Nam nói tiếng như chim hót, tưởng rằng sẽ chẳng người ngoài nào học được. Ngoài ra, người Nước Mặn còn sử dụng cả tiếng Hán, Nôm. Sau nhiều đêm bàn bạc, các vị thừa sai đặt quyết tâm phải tạo ra một thứ ngôn ngữ riêng để tiếp cận với các thổ dân phục vụ truyền giáo. Bàn tới bàn lui, các vị thống nhất sử dụng ký tự Latin ghi âm tiếng Việt để tạo ra chữ viết dành riêng cho người Việt (chữ Quốc ngữ bây giờ).
Đến năm 1619, ông Trần Đức Hòa cưỡi voi đi săn thú trở về bị sốt nặng rồi qua đời đột ngột. Hết người nâng đỡ, sóng gió lại ập tới, 3 vị thừa sai đành phải len lỏi ở các nhà dân để hoạt động, truyền giáo. Tuy nhiên, với sự thông minh kèm theo nhân cách tốt và đặc biệt khả năng tính toán về chiêm tinh của linh mục Christoforo Borri, các linh mục đã lấy được lòng thổ dân Nước Mặn. Lúc ấy, tại Nước Mặn có một ông đồ họ Võ (tổ tiên của ông Võ Cự Anh) dành một căn nhà trống để dạy học. Ban ngày cụ đồ dạy chữ, còn ban đêm 3 vị thừa sai mượn lại nhà trống để rao giảng kinh bổn, mày mò sáng tạo chữ Quốc ngữ.
Những đêm dưới đèn dầu leo lét, các thừa sai cùng trà đàm với giới văn nhân, học sĩ, nhà nho, người dân, thương thuyền ở Nước Mặn. Họ nói chuyện, trao đổi học thuật và tìm hiểu nền văn hóa của đôi bên. Ngược lại, các văn nhân, học sĩ bản địa cũng góp công hỗ trợ các linh mục ghi âm tiếng Việt để Latin hóa tiếng Việt qua chữ viết. “Chữ Quốc ngữ quý giá mà dân tộc ta dùng bây giờ đã trải qua một hành trình ra đời rất dài, nhưng được thai nghén trong bối cảnh như vậy. Cho đến năm 1625, linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là Đắc Lộ, người gốc Pháp) đến Nước Mặn thừa hưởng thành quả của 3 vị thừa sai để hệ thống hóa, bổ sung biên soạn và ấn hành cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên”, ông Võ Cự Anh nói.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang, người có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo về nguồn gốc chữ Quốc ngữ, cho biết: “Căn cứ theo các tài liệu, bằng chứng khoa học chúng ta có được cho đến nay, có thể khẳng định, Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ. Cá nhân tôi đánh giá rất cao vai trò của thời kỳ tiền Đắc Lộ (trước lúc Alexandre de Rhodes đến Việt Nam - PV), thời phôi thai chữ Quốc ngữ. Trong đó, các linh mục Buzomi, Pina, Borri là những người có công đầu; quan trấn thủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa và những văn nhân, học sĩ, thổ dân người Việt ở Nước Mặn cũng có công rất lớn đối với sự ra đời chữ Quốc ngữ”.
NGỌC OAI