F Học sinh Trường Chính Tâm

HS TRƯỜNG TH CHÍNH TÂM


Thành phố buồn

Thành phố cao nguyên Đà Lạt đã từng khiến cho hồn bao lữ khách lãng đãng buồn theo màu lam chiều xứ lạnh vấn vương trên dốc đồi ngàn thông. Và, nhạc sĩ Lam Phương cũng vậy. Với nhạc phẩm “Thành phố buồn”, Lam Phương sẽ sống mãi cùng những người yêu Đà Lạt, yêu âm nhạc…

Bìa băng catset Thành phố buồn và hình nhạc sĩ Lam Phương thời trẻ

Nhạc phẩm trị giá gấp 18 lần chiếc xe hơi 

Đà Lạt là xứ sở mộng mơ, thơ mộng, từ lâu đã gợi lên biết bao nhiêu cảm xúc, nỗi niềm với những tao nhân mặc khách từ thập phương ghé đến. Không thể liệt kê đầy đủ những ca khúc đã viết về xứ lạnh này, nhưng khi nhắc đến Đà Lạt không thể không nhắc đến nhạc phẩm “Thành phố buồn” của nhạc sĩ Lam Phương (SN 1937, tại tỉnh Kiên Giang).

Năm 1970, Lam Phương đến Đà Lạt, cảm xúc chợt đến và ông viết “Thành phố buồn” như một sự thôi thúc trong tâm tưởng. Ca khúc không hề cầu kỳ, hoa mỹ trong khúc thức hay hòa âm, mà chỉ được viết lên rất chân phương với giai điệu slow rock chậm buồn đặc trưng của bolero miền Nam thời đó. Nội dung nhạc phẩm kể về mối tình dang dở của ông với một giai nhân ông đã từng yêu tha thiết - ca sĩ Hạnh Dung.

“Năm 1970, tôi theo Ban Văn nghệ Hoa Tình Thương lên Đà Lạt trình diễn. Trước vẻ trầm lặng của một thành phố trập trùng đồi núi, sương mù bao quanh những con đường dốc quanh co, cùng nỗi cô đơn tràn ngập tâm hồn, tôi đã viết nên nhạc phẩm “Thành phố buồn”. Đây là một trong những ca khúc có số lượng xuất bản rất cao”, nhạc sĩ Lam Phương kể.

Bản thảo nhạc phẩm Thành phố buồn  

Nhắc về bóng hồng tạo nguồn cảm hứng để viết “Thành phố buồn”, nhạc sĩ Lam Phương từng tiết lộ, mối tình của hai người lâm vào bế tắc vì xa cách. Vì Hạnh Dung, ông cũng đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng thể hiện sự bế tắc, day dứt cho mối tình ngắn ngủi này như: “Phút cuối”, “Giọt lệ sầu”, “Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”… Và nổi tiếng nhất có lẽ là “Thành phố buồn”. 

Nhạc phẩm “Thành phố buồn” công bố lần đầu trên sóng Đài Phát thanh Đà Lạt, chỉ một thời gian ngắn sau đó đã lan tỏa khắp nơi. Ca khúc không chỉ xuất hiện trên truyền hình, sóng phát thanh, mà được nhiều người yêu thích. Tờ nhạc “Thành phố buồn” còn là một trong những ấn phẩm nhạc bản bán chạy nhất tại miền Nam trước đây. Ca khúc cũng trở thành bài hát quen thuộc của Ban Kịch Sống. Người Sài Gòn xưa đi xem kịch của Ban Kịch Sống lưu giữ nhiều kỷ niệm đặc biệt với “Thành phố buồn”.

Một bài báo của tác giả Thanh Thủy thuật lại, thời ấy cứ mỗi tối thứ năm hàng tuần, Đài Truyền hình Sài Gòn có tiết mục thoại kịch và những vở kịch của Ban Kịch Sống của Túy Hồng bao giờ cũng thu hút nhiều người xem. Thời ấy truyền hình còn hiếm, người ta kéo nhau tới những nhà có ti vi để xem kịch, trong nhà, cửa ra vào, ô cửa sổ… đều chật cứng người xem. “Tôi còn nhớ, bài hát “Thành phố buồn” của Lam Phương được hát dìu dặt trong suốt một vở kịch của Túy Hồng phát trên truyền hình. Sáng hôm sau, bài hát ấy bán đắt như tôm tươi, chàng học sinh, sinh viên nào cũng muốn mua bài “Thành phố buồn” về để trên kệ sách”, trích bài báo của tác giả Thanh Thủy.

Lãng tử Lam Phương - ông hoàng nhạc tình  

Và, câu chuyện nhuận bút của bài “Thành phố buồn” được biết tới như mức đỉnh cao cho thu nhập một nhạc sĩ thành công thời bấy giờ. Sách “Đà Lạt, một thời hương xa” của Nguyễn Vĩnh Nguyên cho hay: “Số lượng xuất bản rất cao và doanh thu bài hát này vô cùng lớn, đó là điều được báo chí Sài Gòn đương thời tính toán được: khoảng 12 triệu đồng bản quyền, tiền Việt Nam Cộng hòa (hồi suất chính thức năm 1970 là 1 USD = 275 đồng, vậy 12 triệu đồng tương đương 432.000 USD). Con số này quá lớn với một ca khúc”.

Nói thêm rằng, thời điểm đó vàng chỉ khoảng 36.000 đồng/lượng. Để dễ hình dung, Nguyễn Vĩnh Nguyên đưa ra so sánh: “Một chiếc xe hơi hiệu La Dalat của hãng Citroen sản xuất tại miền Nam Việt Nam vào năm 1971 có giá khoảng trên dưới 650.000 đồng”. Như vậy, bản quyền ca khúc “Thành phố buồn” có thể giúp Lam Phương mua tới hơn 18 chiếc xe hơi.

Viết về Đà Lạt mà không đụng đến một từ Đà Lạt 

Viết về Đà Lạt nhưng Lam Phương không sử dụng một chữ Đà Lạt nào trong phần lời của “Thành phố buồn”. Bài hát chỉ vẽ ra hình ảnh lãng đãng khói sương: “Đường quanh co quyện gốc thông già…/Thành phố buồn nằm nghe khói tỏa/ Người lưa thưa chìm dưới sương mù…/ Và con đường ngày xưa lá đổ…”. Những ca từ gợi lên trong chúng ta về một thành phố cao nguyên, nơi có những con dốc quanh co, sương chiều lãng đãng, cơn gió chiều lạnh buốt co ro của những lứa đôi bên đồi thông xanh và nỗi buồn len vào kỷ niệm.

Đà Lạt mộng mơ- thành phố của những cặp tình nhân  

Ở đó dễ nảy sinh tình yêu lãng mạn của trai gái yêu nhau. Ai một lần đến Đà Lạt cũng dễ nhận ra những hình ảnh mà nhạc sĩ Lam Phương đã trải lòng trong nhạc phẩm này. Đà Lạt dễ làm cho người ta gần nhau hơn. Lành lạnh. Sương mờ. Gió nhẹ. Đồi dốc quanh co. Tiếng chuông chiều buông lơi và hơi ấm trong bàn tay nhau… Người ta bắt gặp sự đồng cảm khi nghe “Thành phố buồn” có lẽ vì khung cảnh Đà Lạt là thiên đường cho tình yêu, là tìm chốn êm đềm.

Để rồi cũng chính đô thị khói sương ấy lại khắc khoải buồn trong bức tranh tiễn biệt. Và, nửa thế kỷ trôi qua, “Thành phố buồn” đã không chỉ còn là một ca khúc viết riêng cho Đà Lạt hay cho mối tình của Lam Phương, mà đã được khái quát trở thành những giai điệu của nhớ nhung day dứt. Khi nhạc phẩm được vang lên, người nghe đã thấy dâng trào những niềm thương cảm vô bờ.

Nhắc về Đà Lạt, trong hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”, danh ca Khánh Ly kể, những năm thập niên 1960, con gái Đà Lạt ai nấy đều xinh xắn, với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán mì Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa.

Theo nữ danh ca, điều chắc chắn phải nói là người Đà Lạt hiền. Hiền như nước mưa, nước suối. Hiền như cây trái tốt tươi. Hiền như hoa như gió. Như tiếng chuông reo bốn mùa. Hiền như bãi xe lam dăm ba chiếc im lìm nơi bến đậu. “Hiền như những cơn mưa bất ngờ bay nghiêng qua thành phố, không hề làm rối chân khách bộ hành. Những con đường vắng lặng. Những ngôi biệt thự nằm xa nhau, không tường bao bộc, chỉ có hoa và hoa dưới những cây thông rải rác, tưởng như mọc vô tình không người săn sóc.

Ấy thế mà trong cái vô tình gần như hoang dã ấy, luôn có những lúc rộ lên tiếng cười rộn ràng ngây thơ. Đời sống đẹp và đáng sống biết bao nhiêu”, trích hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”. Danh ca Khánh Ly bảo, thời đó, bà mới 18, 19 tuổi (năm 1963, 1964) còn ham ăn, ham chơi. Chẳng có gì thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhảy khắp Đồi Cù, xuống Tòa Tổng Giám mục, men theo con đường Tình Yêu dẫn lên Tòa Tỉnh, rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên bãi cỏ thênh thang nhìn ngắm mây trời. “Không nhớ đến ai cũng không cần biết mình là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đình và Sài Gòn. Tôi thương các con, song thường tự hỏi vì sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đình.

Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm chìm dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15”, trích hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”. Đó là ý nghĩ của một thiếu phụ tuổi 19, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hòa trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó.

Đình Phùng (biên soạn)

Chái bếp miền quê

Ở quê tôi, hầu hết các gia đình khi làm nhà đều quy hoạch một khoảng đất hợp lý để làm chái bếp bên cạnh nhà ngang phía sau và có cửa riêng để vào bếp. Hướng bếp thường vuông góc với hướng nằm đầu giường của chủ gia để tránh khi ngủ đạp chân vào bếp hoặc quay đầu vào bếp. Có hỏi tại sao thì cũng không ai có câu trả lời chính xác, chỉ biết rằng đó là đặc điểm của làng quê truyền từ đời này sang đời khác; người quê quen gọi cái tên thân thuộc là: “chái bếp”, hay còn gọi là “căn nhà thêm”.

Chái bếp, hai từ nghe giản dị, tưởng chừng như chẳng có ý nghĩa gì nhưng lại rất quan trọng của một gia đình. Có bữa cơm ăn ngon, bữa ăn đúng giờ hay không phụ thuộc rất nhiều vào chái bếp; nơi cất dành củi để nấu nướng, nơi để nồi niêu, xoong chảo; ở đó có cái “tủ bếp”, người thành thị gọi là tủ gạc-măng-giê, phiên âm theo tiếng Pháp, nghĩa là nơi giữ thức ăn và là nơi mẹ cất những vật dụng cần thiết để nấu ăn. Trước cửa chái bếp là nơi dành cho những người khi nấu ăn ngồi nhổ tóc sâu trò chuyện trao cho nhau những sẻ chia, tâm sự đã là cảm hứng để nghệ sĩ Bắc Sơn viết một câu cho bài hát “Còn thương rau đắng mọc sau hè”, “chái bếp hiên sau cũng ngọt ngào một lời cho nhau”. Tôi lớn lên gắn liền với sự đổi mới và phát triển của đất nước; làng quê ngày ngày không ngừng thay da đổi thịt; chái bếp của mỗi nhà cũng đổi thay theo năm tháng. Bếp than, bếp củi đã dần thay thế bằng bếp ga, nồi cơm điện; nồi niêu, xoong chảo không còn bám khói, bụi đen; tất cả thay bằng vật dụng inox trắng tinh, bóng loáng.

Nhắc tới hình ảnh chái bếp, khi chiều hôm có khói bay lững lờ theo dòng chảy thời gian ở quê xa xôi, tôi chợt nhớ những khoảng khắc cả nhà quây quần bên nhau trong chiều mưa mùa hạ, đợi mẹ nấu xong bữa cơm cho cả gia đình. Chái bếp cũng là nơi gắn liền với người con gái thôn quê, trước khi lập gia đình nhà trai đi xem mắt vợ cho con thường không quên ghé vào nhìn ngó chái bếp nhà gái để có cơ sở đánh giá con dâu tương lai của mình về cách ăn, nếp ở có gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp hay không. Ngày xưa ông bà ta có câu: “Lựa vợ cũng phải coi cái bếp. Cái bếp nói lên hết trơn tính tình của đứa con gái!”.

Chái bếp chẳng biết tự bao giờ đã đi vào ký ức của đám trẻ nhà quê chúng tôi; giản dị và đơn sơ, nhưng hễ nhắc đến là hiện về cả một bầu trời nhung nhớ, khiến lòng bâng khuâng, xao xuyến nhớ về khoảng thời gian ấu thơ nơi mình đã sinh ra và gắn bó với người thân, với quê hương xóm làng.

Những người con xa quê hương, biết rằng ở quê đã có nhiều thay đổi theo thời gian và cuộc sống ngày càng hiện đại hóa; người đi xa vẫn còn hình ảnh quê nhà, còn hình ảnh chái bếp với khói lam chiều, với đôi mắt mẹ, mắt chị, mắt đứa em gái cay xòe trong chái bếp chạy ra và biết bao kỷ niệm. Chái bếp thuở xa dù sau này không còn lưu giữ nguyên vẹn, nhưng tôi tin ký ức xưa vẫn còn và đồng hành với cuộc sống chúng tôi mãi đến mai sau vẫn còn lưu dấu.

Đỗ Văn Cường

Nguon: baobinhthuan.com.vn

Hôn nhân là hợp đồng vô thời hạn

Hôn nhân là hợp đồng vô thời hạn
Hai vợ chồng nọ cãi nhau một trận lớn. Người vợ vừa khóc vừa nói:

- Ông nhìn xem. Ông chỉ bỏ ra có vài chỉ vàng để cưới tôi mà lại muốn tôi trở thành osin cả đời sao? Trong khi người ta có thể phải bỏ ra vài tỷ chỉ để cung phụng một cô gái trong vài năm. 

Ông chồng nghe vậy liền cãi lại: 

- Đó là người ta dùng thuê bao trả trước, còn tôi dùng thuê bao trả sau. Bà thử tính xem ai hơn, ai thiệt. Vài chỉ vàng đó chỉ là phần tôi cọc trước, sau đó tháng nào bà cũng đều đặn thu lương của tôi, chưa kể đất đai tài sản được thừa kế. Mấy cô gái kia, sau vài năm là giác sẽ ngày càng giảm dần còn bà sẽ ngày càng thu được nhiều lương, đến khi "bao bì" đi xuống giá vẫn tăng. Tôi với bà là hôn nhân, hợp đồng vô thời hạn. Nếu tính vậy chẳng phải tôi mới là người thiệt, đi tù chung thân sao?


Cái giá của hỏi không đến nơi đến chốn  

Một khách bộ hành hỏi người đánh xe tuyết đi ngang qua:

- Xin lỗi! Từ đây vào thị trấn mất bao lâu?

- Khoảng nửa tiếng,

- Ông cho tôi đi nhờ xe được không?

- Được thôi.

Nửa tiếng sau, du khách bắt đầu lo lắng khi thấy mãi vẫn chưa đến:

- Còn bao lâu thì đến thị trấn?

- Khoảng một tiếng!

- Sao lúc nãy ông nói chỉ mất có nửa tiếng mà tôi thấy chúng ta đã đi rất lâu rồi.

- Thị trấn đó ở hướng ngược lại. 


Không khí trong lành 

Buổi tối, cô con gái chạy đến nũng nịu nói với bố:

- Bố ơi, con đi dạo một chút nhé! Con thấy trong nhà hơi ngột ngạt. Con cần chút không khí trong lành.

- Được thôi con yêu. Nhưng con hãy báo với "không khí trong lành" của con là phải về trước 9 giờ đấy!

Nguồn: http://thoidaiplus.giadinh.net.vn

Lan man chuyện...xe lam

Ngày đầu tiên thực hiện Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ về cách ly toàn xã hội để phòng-chống dịch Covid-19, đường Lê Hồng Phong (TP. Pleiku) gần như không có bóng người lại qua, chỉ có các loại ô tô đậu trước nhà riêng, dưới lòng đường, trên vỉa hè... Thấy sự chấp hành nghiêm túc của mọi người, tôi chụp cảnh ấy đưa lên mạng xã hội. Một số bạn bè từ những nơi xa comment (bình luận) khen người dân ở phố tôi chấp hành lệnh trên quá tốt, không quên “ngỏ” thêm lời khen bà con nơi đây khi thấy hàng dãy xe con toàn loại đắt tiền... Chuyện này gợi nhớ trong ký ức của tôi về những chiếc xe lam thời sau 1975. Ngày ấy, Phố núi của tôi còn nghèo.

1. Nói chuyện với anh tài xế xe lam cùng khối phố, anh bảo, xe anh mua cách nay chừng... hơn 40 năm, tới hơn chục cây vàng. “Nó nuôi sống cả gia đình tôi, giúp các con tôi được học hành đấy”-anh nói thế. Cách nay hơn chục năm, nhiều địa phương đã không cho phép loại xe này lưu hành nữa. Tuy nhiên, đâu đó nó vẫn còn có ích cho người nghèo trong việc vận chuyển hàng hóa lặt vặt chặng gần, miễn là đảm bảo an toàn giao thông. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, nghe nói ở các tỉnh Nam Bộ nhập khẩu khá nhiều xe lam, rồi sau đó là các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau ngày giải phóng cho đến suốt thời kỳ bao cấp, loại phương tiện này vẫn còn hữu ích, không chỉ vận chuyển hàng hóa đường ngắn mà còn vận chuyển hành khách. Người ta cải tiến nó bằng nhiều hình thức, có thể chở từ 10 người trở lên.

Không chỉ có xe lam 3 bánh mà còn có loại sang hơn là xe lam 4 bánh, ở Pleiku rất nhiều loại xe này. Hồi vừa chân ướt chân ráo từ căn cứ ra, chưa quen với động cơ “xé nát không gian” của hàng chục chiếc xe lam 3 bánh, tôi rất khó chịu khi mới 2, 3 giờ sáng, những ông chủ xe đã “khởi động” và chạy khắp các nẻo đường của Phố núi. Nhưng dần rồi cũng quen và thấy có ích, đôi khi đi công tác các tuyến đường gần mua được vé đi xe lam là mừng lắm, còn hơn phải đi bộ hoặc xe đạp. Còn chuyện xe máy, ô tô con với anh chị em nhân viên chúng tôi là... chuyện trong mơ.

2. Ngày trước, ông chú họ của tôi tên Đoàn Thắng có chiếc xe lam 3 bánh. Ông cũng là người duy nhất ở xã Cửu Đạo (An Khê cũ) có loại xe này. Hồi tôi còn rất nhỏ, thỉnh thoảng từ quê ở Bình Định lên An Khê, được ông chở đi chơi bằng chiếc xe lam là mừng hết lớn. Sau này, tôi mới nghe chú kể, với cái mác “ông Hội đồng”, ông đã qua mắt bọn thám báo, mật vụ, chỉ điểm, thường xuyên dùng chiếc xe lam của mình làm phương tiện vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng.



Vùng Cửu Đạo, An Xuân trước đây, đặc biệt là Tú Thủy (An Túc-địa danh cũ, An Khê ngày nay) là nơi có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Khi chiếm An Khê từ những năm cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, giặc Pháp đã xây dựng đồn bốt, tăng cường quân lính ở đây. Dù vùng đất này còn khá hoang sơ, nhưng người thưa, đất rộng, làm ăn khá thuận lợi, đa số bà con có của ăn của để. “Đất lành chim đậu”, tất nhiên cả chim “khôn” và chim “dữ”. Và do đặc điểm ấy, phía cách mạng cũng ra sức xây dựng phong trào ở đây phát triển mạnh.


Đồn Tú Thủy là một trong những nơi quân Pháp xây dựng và bố trí lực lượng canh phòng vô cùng chặt chẽ nhằm một mặt đàn áp các cơ sở cách mạng, mặt khác hòng ngăn chặn cửa ngõ của lực lượng cách mạng qua lại giữa vùng tự do Bình Định lên Tây Nguyên và An Khê để vào vùng hậu cứ Đông Bắc Pleiku. Rất nhiều lần quân ta đã đánh đồn Tú Thủy, trong đó có trận đánh do Trung đoàn trưởng Vi Dân chỉ huy vào rạng ngày 14-3-1947. Tuy nhiên, trong trận này, chúng ta không đạt được ý đồ tác chiến. Sau gần 1 tuần củng cố, tăng cường lực lượng, sáng 22-3-1947, bọn lính Pháp từ đồn Tú Thủy đã tung quân phản công, càn quét lên phía Tây sông Ba, vào làng Tân Lập (xã Đak Hlơ, huyện Kbang ngày nay). Chúng tiến hành cuộc thảm sát vô cùng tàn bạo, dã man đối với 368 người già, trẻ em và phụ nữ, đốt phá không sót một ngôi nhà... Sang thời chống Mỹ, vùng đất Tây Bắc An Khê này vẫn phát huy được truyền thống xưa. Năm 1969, Đào Văn Mỹ-một cán bộ của K8 đã đầu hàng giặc khai báo toàn bộ mạng lưới cơ sở ngầm của cách mạng trong vùng. Chú tôi-ông Hội đồng Đoàn Thắng, một trong những người nằm trong danh sách cơ sở ngầm của cách mạng bị giặc bắt. Tất nhiên một số tài sản, phương tiện của ông có liên quan đến hoạt động cách mạng cũng bị tịch thu, trong đó có chiếc xe lam.



3. Trở lại chuyện xe lam ở Phố núi. Khi đó, dù rất nhiều xe lam hoạt động đúng kiểu “dù” và “cóc” nhưng lại rất trật tự, có một số chủ xe đã tập hợp lại với nhau thành các tổ hợp tác vận tải, chia sẻ nhau công việc và hành khách, tuyến đường, chưa có chuyện cạnh tranh, giành khách, giành chuyến... Nhiều chủ hàng nhỏ, lẻ làm quen hẳn một ông chủ xe lam, thế là việc chuyên chở, bán mua, đổi chác đâm ra thuận tiện.



Một hôm có công việc, tôi đi một trong những xe loại này từ Pleiku lên Kon Tum. Xe cũ và yếu, lại chở nặng nên ì ạch gần 2 tiếng đồng hồ mới đến được Kon Tum. Trên đường, ngồi cạnh bác tài vui tính, tôi nghe anh kể về những chiếc xe lam. Anh bảo, xe lam là mình gọi theo tiếng Việt, chứ thực ra nó là dòng xe Lambretta 3 bánh, sản xuất từ đâu bên Tây, chỉ người nghèo mới đi xe này, chủ yếu là chở hàng nông sản, hàng chợ. Anh kể thêm, thời điểm binh lính Việt Nam Cộng hòa tháo chạy khỏi Gia Lai, Kon Tum giữa tháng 3-1975 anh cũng tham gia “di tản”. May mắn hơn nhiều gia đình khác, anh không bị lính Việt Nam Cộng hòa cướp xe để chạy loạn.



Mới đó mà đã non nửa thế kỷ, ký ức lan man chuyện về một thời xe lam ấy ngẫm ra cũng nhiều điều để nói. Phấn đấu để đất nước có nền công nghiệp phát triển vào năm 2020 là mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội từ cách đây hàng thập kỷ của nước ta. Nhưng phấn đấu mãi, nền công nghiệp xe hơi cũng chỉ dừng lại ở mức... lắp ráp. Phương tiện vận tải hành khách và hàng hóa tất nhiên giờ đã rất tiên tiến, hiện đại, thuận lợi bội phần so với thời xe lam. Nhưng dù sao, cái thời khó khăn ấy, xe lam đã phát huy tác dụng của mình trong vận chuyển hành khách, hàng hóa, có người chở cả đồ tiếp tế cho cách mạng trong thời chiến, như chú tôi...



 ĐOÀN MINH PHỤNG

Nhà thờ bí ẩn

Nhà thờ bí ẩn do "thiên thần xây dựng" ở châu Phi
Truyền thuyết kể lại rằng, con người sẽ đảm nhận việc xây dựng nhà thờ Lalibela vào ban ngày, còn các thiên thần sẽ giúp sức vào ban đêm.
Kiến trúc nhà thờ trong lòng đá ở thị trấn nhỏ Lalibela là minh chứng độc đáo nhất về các nét văn hóa đặc biệt của Ethiopia - đất nước đa sắc tộc với nhiều truyền thống đặc sắc, kỳ lạ.
Nhà thờ đá Lalibeta về hoàng hôn.
Thị trấn Lalibela nằm ở độ cao gần 2.500m so với mặt nước biển trên vùng cao nguyên Ethiopia. Xung quanh thị trấn là những vùng núi đá và khô cằn. Vua Lalibela (trị vì từ năm 1187 đến năm 1221) là một người sùng đạo.
Với hi vọng xây dựng thị trấn thành một nơi như Jerusalem - nơi vang danh về cả khía cạnh tinh thần tôn giáo lẫn kiến trúc, ông đã sáng lập ra kiểu kiến trúc lạ nhằm tạo ra một thánh địa mang biểu tượng linh thiêng. Tại nơi đây, vào thế kỷ XIII, những tín đồ sùng đạo Thiên Chúa bắt đầu đục đẽo những khối đá núi lửa màu đỏ để “xây” lên 13 nhà thờ.
Vách đá đã úa màu theo thời gian.
4 trong số những nhà thờ đó được hoàn thiện đứng độc lập với khối đá và chỉ có phần nền móng là còn gắn liền với khối đá mẹ này. 9 nhà thờ còn lại vẫn gắn liền với đá và chỉ có bề mặt được “giải phóng” khỏi khối đá.
Ghé thăm thị trấn này, bạn sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng 11 nhà thờ cổ đồ sộ còn lại. Các công trình đầy sáng tạo này đã biến thị trấn miền núi Lalibela thành một nơi hành hương đầy tự hào của các tín đồ Cơ đốc giáo chính thống Ethiopia.
Dù phải vượt qua chặng đường gian khó nhưng nhiều người tìm đến đây để chứng kiến các cấu trúc hùng vĩ, hôn lên các bức tường đá lâu đời hoặc lặng lẽ cầu nguyện đọc các bài kinh nhằm tỏ lòng tin với tôn giáo và hi vọng mình và gia đình sẽ được ban phước lành.
Có khá nhiều câu chuyện được đồn thổi xung quanh việc xây dựng nhà thờ đá này. Trong đó có truyền thuyết kể lại rằng, con người sẽ đảm nhận việc xây dựng nhà thờ đá vào ban ngày, còn các thiên thần sẽ giúp sức đẩy nhanh tiến độ vào ban đêm.
Nhà thờ đá nhìn từ trên xuống.
Thánh George chính là người giám sát công việc của những thiên thần đó. Có lẽ bởi vậy mà công việc xây dựng Lalibela được hoàn thành với tốc độ nhanh đáng kể, khoảng 23 năm và nhà thờ còn được biết với cái tên khác là nhà thờ Thánh George.
Các họa tiết tranh vẽ phía trong nhà thờ.
11 nhà thờ đá nham thạch chia làm 3 cụm, hòa hợp tạo nên một quần thể kiến trúc tổng thể, nối với nhau bằng các địa đạo và hành lang. Thánh đường được đào sâu từ 7 - 12m trong ngọn núi nên ban đầu công việc thi công vô cùng khó khăn.
Đầu tiên, những người tham gia thực hiện công trình phải tìm những phiến đá nham thạch lớn, không có vết nứt, loại bỏ đất đá mềm trên bề mặt rồi tách rời khỏi núi. Sau đó, từ những phiến đá lớn này, người ta mới đục đẽo nên tường, trần, cửa, cột trụ…
Khách hành hương từ các nơi khác đến cầu nguyện đông đúc.
Được xây dựng theo hình chữ thập, ô cửa sổ điêu khắc tinh xảo, nhà thờ Thánh George có một hệ thống phức tạp các cống rãnh thoát nước, đường hầm, các lối đi ngầm cùng nhiều công trình ngầm dưới lòng đất và trong vách đá. Khi Mặt trời xuống dần, nhà thờ hiện lên màu hồng rồi chuyển sang vàng và xanh rêu trước khi bóng tối bao trùm.
Nhờ kiến trúc ấn tượng và những ảnh hưởng của Kitô giáo nên nhà thờ này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1978. 5 năm trước, UNESCO đã quyết định cho dựng các tấm phủ để bảo vệ một phần của công trình này.
Theo các chuyên gia, việc này có thể sẽ khó coi nhưng lại rất quan trọng cho việc bảo vệ nhà thờ nguyên vẹn. Trong tương lai, Ethiopia sẽ tiếp tục tiến hành những thay đổi có tính tích cực nhằm trở thành một địa điểm linh thiêng cho các tín đồ, nơi mà có thể cảm nhận được hơi thở cuộc sống qua các bức tường đá cổ xưa.
Theo PV (Trí Thức Trẻ)

Người ăn xin đáp trả quý bà kênh kiệu

Người ăn xin đáp trả quý bà kênh kiệu

Một quý bà dắt cún cưng đi dạo.Trên đường gặp một người ăn mày, bà ta nói:​

- Nếu anh gọi cún cưng của tôi là bố, tôi sẽ cho anh 100 nghìn.​

Người ăn mày hỏi lại:

- Nếu tôi gọi 10 lần thì sao?

Bà này đáp:

- Thì cho anh 1 triệu.

Người ăn mày lập tức nhìn con chó gọi to mười lần "bố ơi". Người đi đường thấy lạ xúm vào xem. Dưới sự chứng kiến của đám đông, quý bà đành phải đưa tiền cho anh này. Lập tức, anh này tươi cười rối rít nói:

- Cảm ơn mẹ, cảm ơn mẹ nhiều lắm.​


Chồng nghèo vì quên mật khẩu

Hai vợ chồng Tèo mới cưới nhau vài ngày đã cãi nhau ỏm tỏi. Vợ Tèo khóc lóc nói:​

- Anh là đồ dối trá, sao trước khi lấy tôi anh bảo trong tài khoản của anh có mấy chục tỷ mà. Nhìn xem bây giờ đến tiền đóng tiền nhà cũng không có một đồng.​

Tèo thanh minh:

- Anh có nói sai đâu, tài khoản anh có mấy chục tỷ thật mà. Chỉ là anh quên mật khẩu nên không rút ra được thôi. Giờ mỗi ngày anh vẫn đang mò mật khẩu đây.

Vợ Tèo tức tưởi đáp:

- Anh đừng có nói dối nữa, có giỏi thì chứng minh cho tôi thấy đi.

Tèo móc từ túi áo ra một xấp vé số quăng xuống bàn:

- Đây, mật khẩu này, chừng nào anh đoán đúng có khi lấy được cả trăm tỷ cho em xem.


Mối quan hệ mật thiết giữa âm nhạc và hôn nhân

Sau nhiều năm mải mê lập nghiệp, cuối cùng cũng đến lúc Tồ muốn xây dựng gia đình. ​​Tuy vậy, anh chưa thể mường tượng được đời sống hôn nhân thật sự như thế nào nên bèn tìm đến hỏi bố:​

- Đàn ông sao khi cưới vợ thì cảm giác như thế nào bố nhỉ?

Bố Tồ chậm rãi nói:

- Con lấy điện thoại ra đi, vào danh sách bài hát rồi chọn một bài mà con thích nghe nhất.

Dù không hiểu lắm nhưng Tồ vẫn răm rắp làm theo. Sau đó anh hỏi:

- Rồi sao nữa bố?

Bố Tồ vẫn chậm rãi:

- Con xóa hết tất cả các bài hát khác đi, chỉ chừa lại duy nhất bài hát con đã chọn thôi.

Tồ ngạc nhiên:

- Chuyện này thì liên quan gì đến việc con lấy vợ hả bố?

Bố Tồ nhẹ nhàng khoác vai con trai:

- Con cứ thử tưởng tượng suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời, con chỉ được nghe đúng một bản nhạc ấy đi. Bố tin là con sẽ hiểu, con trai ạ.

Nguồn: http://thoidaiplus.giadinh.net.vn

Sang Ngang - Đỗ Lễ

Tình đơn phương làm nên nhạc phẩm đệ nhất thất tình
Yêu đơn phương một nữ ca sĩ, nhưng rồi người đẹp đi lấy chồng, để lại bao tiếc nuối trong lòng nhạc sĩ Đỗ Lễ (1941 - 1997). Ôm mối tình khổ đau này, nhạc sĩ làm nên nhạc phẩm đệ nhất thất tình - “Sang ngang”, với những lời ca não tình, sướt mướt…
Mối tình làm nên “Sang ngang”
Ca khúc “Sang ngang” bắt nguồn từ giọng hát của ca sĩ Lệ Thanh. Sự nghiệp ca hát của Lệ Thanh tuy chỉ trong khoảng 10 năm (1955 - 1965), nhưng đã chinh phục trọn vẹn cảm tình của khán giả đương thời. Cách trình bày bản nhạc của Lệ Thanh rất đặc biệt. Đó là không hát liên tục một câu mà thường chia câu hát ra làm hai đoạn để ngừng và láy ở giữa câu, rồi mới tiếp tục hát cho đến hết câu. Cô còn láy qua láy lại tiếng cuối của câu hát, tạo nên cảm giác mới lạ cho nhạc phẩm được trình bày. Đã vậy, cô ưa chẻ từng câu hát, chỗ không phải ngừng thì lại ngừng. 
Chơi ngẫu hứng như thế nên nhiều khi ý nhạc sai lệch hẳn đi. Các nhạc sĩ nhăn nhó, nhưng khán giả cứ vỗ tay rần rần. Dạo ấy, Lệ Thanh ưa hát các nhạc phẩm như: “Tiễn em” (thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy), “Chiều mưa biên giới”, “Sắc hoa màu nhớ” (Nguyễn Văn Đông), “Gặp nhau”, “Tà áo cưới” (Hoàng Thi Thơ), “Tà áo xanh” (Đoàn Chuẩn - Từ Linh)...
Tuy nổi tiếng nhưng cuộc đời ca hát của Lệ Thanh lại rất ngoan hiền, không chút điều tiếng. Cô ăn mặc giản dị, tránh né đám đông tối đa, không thích chụp ảnh và ghét tuyên bố vung vít trên mặt báo. Tuy là ca sĩ nhưng trong mắt khán giả, hình ảnh Lệ Thanh như một nữ sinh ngây thơ, khả ái.
Trong số các khán giả ái mộ Lệ Thanh, có một chàng nhạc sĩ trẻ, dáng dấp thư sinh. Đó là nhạc sĩ Đỗ Lễ. Năm 10 tuổi, Đỗ Lễ tự học nhạc và tập tành sáng tác năm 15 tuổi. Tuy thế, đến thời điểm “trồng cây si” ca sĩ Lệ Thanh, Đỗ Lễ vẫn chưa có nhạc phẩm nào thật sự nổi tiếng. 
Thời còn phòng trà Anh Vũ, Kim Sơn, Hòa Bình ở Sài Gòn, đêm nào Lệ Thanh hát cũng có mặt Đỗ Lễ. Lệ Thanh đứng trên sân khấu, mỉm cười chung chung, vô định, nhưng Đỗ Lễ thấy như nàng cười với riêng mình, nàng hát riêng cho mình nghe.
Với tâm hồn đa cảm và bén nhạy yêu thương, Đỗ Lễ đã để hết lòng mình mở rộng đón tiếng hát Lệ Thanh đi sâu vào cõi thầm kín nhất của tình si. Từ tiếng hát chất chứa nỗi lòng tan tác bởi chia ly của người nữ ca sĩ tài hoa này đã dẫn Đỗ Lễ vào bến si mê. Yêu giọng ca yêu cả con người.
Nhạc sĩ Đỗ Lễ những năm thập niên 60 

Thật sự lúc ấy, nói về tài nghệ và danh phận, Đỗ Lễ chỉ là một bóng mờ so với tầm vóc của Lệ Thanh. Yêu một chiều là nỗi trái ngang thường trực của tình đời. Đỗ Lễ là một lẻ bóng trong yêu đương, nhưng vẫn đắm đuối hình bóng ấy làm chất liệu cho kiếp sống đam mê.
Rồi, chàng nhạc sĩ sáng tác rất nhiều nhạc khúc theo nhịp điệu slow, vừa ca ngợi tình yêu vừa than thở cho thân phận một người muốn leo cành bưởi hái hoa. Nhưng cành bưởi thì xa, hoa thì lung linh khiêu gợi, mà bàn tay chàng thì cách xa quá, cách xa mỏi cả tầm tay với.
Sự nghiệp đang rực rỡ, khoảng năm 1965, Lệ Thanh bỗng nhiên bỏ ngang để lấy chồng, để lại nhiều nuối tiếc trong lòng khách mộ điệu. Người hụt hẫng nhất chính là Đỗ Lễ. Dù nhạc sĩ yêu Lệ Thanh bằng mối tình đơn phương nhưng cũng đau đớn, vật vã. 
Nhạc phẩm “Sang ngang” ra đời trong trạng huống đó với tấm lòng tan nát, ôm mối tình của hai con đường song song không bao giờ gặp nhau. Nhạc sĩ tưởng tượng ra một đêm từ biệt với Lệ Thanh: “Thôi nín đi em, lệ đẫm vai rồi, buồn thương nhớ ơi…/ Mai bước sang ngang, lòng thêm nát tan, tình đã dở dang/ Thôi khóc làm gì, đã lỡ duyên thề, thương nhau làm chi/ Nỗi buồn ai hay, khi mình chia tay, xa cách nhau rồi...”. Bài hát này nhanh chóng trở nên phổ biến và đã làm cho biết bao nữ sinh rơi nước mắt.
Theo danh ca Phương Dung, “Sang ngang” là ca khúc nằm trong series 4 bài, gồm: “Sang ngang”, “Buồn”, “Tuyệt vọng”, “Lụy tình” do nhạc sĩ Đỗ Lễ sáng tác khi đang thất tình ca sĩ Lệ Thanh. 
“Vì yêu quá say đắm, Đỗ Lễ như thấy nữ ca sĩ hát cho mình ông, cười với mỗi ông. Khoảng năm 1965, Lệ Thanh bỗng nhiên ngưng sự nghiệp ca hát để theo chồng, để lại bao tiếc nuối trong lòng Đỗ Lễ. Càng yêu nhiều, nam nhạc sĩ càng đau khổ bấy nhiêu”, danh ca Phương Dung cho biết. 
“Nhạc sĩ của những cuộc tình dở dang”
Khoảng sau năm 1965, tại một phòng trà nhỏ nằm gần đường Đinh Tiên Hoàng, nhạc phẩm “Sang ngang” được Hoài Xuân trình bày. Lúc đó, Hoài Xuân khoảng 18 tuổi, rất xinh đẹp, có đôi mắt buồn não nuột. Nàng cất giọng ca thê lương băng giá cả màn đêm. Bản nhạc này được giới thưởng ngoạn hôm đó khen ngợi nhiệt tình. Hôm đó, Đỗ Lễ cũng có mặt. Hai tâm hồn, một hoàn cảnh, nỗi đau riêng thành mối sầu chung. 
Từ đó hàng đêm, Đỗ Lễ vẫn đến các phòng trà nơi Hoài Xuân trình diễn đưa đón nàng và cuối cùng hai người tiến tới hôn nhân. Tuy nhiên, cuộc tình này chỉ kéo dài 6 năm khi họ có với nhau 3 mặt con. 
Thời gian đau khổ này, Đỗ Lê sáng tác nhạc phẩm “Tình phụ”. Bài hát cũng đã được tuyển chọn vào vòng chung kết những nhạc phim hay tại Đại hội Điện ảnh Á châu tổ chức tại Tokyo vào đầu thập niên 1970 và cũng là bài hát trong phim “Sóng tình” với diễn viên chính là Thẩm Thúy Hằng.
Ngoài những nhạc phẩm trên, nhạc sĩ Đỗ Lễ còn có hàng loạt những ca khúc mang hơi hướm thất tình nghe rất não lòng như: “Tan vỡ”, “Tàn phai”, “Dại khờ”, “Hận tình”, “Oan trái”, “Dang dở”, “Chuyện buồn tình yêu”, “Mùa thương cũ”, “Rồi em cũng bỏ tôi đi”…
Bìa nhạc phẩm “Sang ngang” 

Cố nhạc sĩ Phạm Duy từng nhận xét: “Đỗ Lễ là nhạc sĩ của những cuộc tình dở dang. Ai từng yêu nhạc mà không âm thầm nghĩ đến Đỗ Lễ, cái lặng lẽ âm thầm ấy là sự đau thương trong tình khúc reo hờn trầm buồn đi thẳng vào cuộc đời. Từ muôn trùng, mỗi lần nghe tiếng nhạc trỗi vang là mỗi lần cảm thấy lòng bùi ngùi se sắt lại, tình bâng khuâng với dòng nước, hồn lơ lửng theo mây gió. Trong những phút tuyệt vời ấy, người ta lại thầm nghĩ tới người nghệ sĩ đã soạn thành những tình khúc dang dở của tình yêu, hình dung đến cái đẹp hào hoa tao nhã của con người nhiều lãng mạn và mộng mơ, để lòng thổn thức với thế nhân”.
Cũng theo nhạc sĩ Phạm Duy, những hình ảnh đẹp rực rỡ huy hoàng của nhạc sĩ Đỗ Lễ là người mang đầy những thơ mộng, dày đặc những đau thương và sầu khổ đã phủ kín đời anh… Những tiếng nhạc buồn như mời mọc, van xin và sự sầu khổ man mác tạo thành những ca khúc tuyệt vời là tiếng lòng thổn thức của Đỗ Lễ. 
Sau năm 1975, nhạc sĩ Đỗ Lễ sinh sống bằng cách mở lớp dạy nhạc. Đến năm 1994, ông qua Mỹ định cư. Tuy nhiên, do không hòa nhập được với cuộc sống nơi quê người, ông bị trầm cảm nặng. Trong một dịp trở về Việt Nam, nhạc sĩ đã tìm đến cái chết bằng cách tự tử với một liều thuốc cực độc vào ngày 24/3/1997.
Người ta tìm thấy trong căn nhà của ông hai lá thư tuyệt mệnh, một gửi cho vợ và một gửi cho một người bạn thân. “Thực mà nói, anh không có đối tượng, anh không sáng tác được, đó là tật xấu của anh. Nhưng những mối tình đẹp và trong sáng đã tạo được nhiều cảm xúc trong tác phẩm”, nhạc sĩ Đỗ Lễ viết trong thư tuyệt mệnh.

Đình Phùng (biên soạn)

Kho cuốn

Kho cuốn hoạt động và tồn tại suốt một chặng dài với nhiều biến động lịch sử của đất nước cũng như làng xã, phận người...
Rõ là người làng, vẫn đạp cái xe đạp nam, ko chắn bùn, chắn xích, không phanh, không chuông mà ra làm ở kho cuốn chỗ ngã ba đầu làng, đất gò Me, hay đồng Quan xưa là trở thành người thoát ly ngay.

Nói không sai vì đã là người biên chế nhà nước, có sổ gạo và chế độ hơn đứt người làng rồi. Cho dù vẫn là người họ Nguyễn, Bùi hay Lê trong làng, nhưng đã có bạn bè trong cả huyện, người làng thường bảo là "cánh thoát ly, quan hệ rộng".

Hội làng, người thoát ly mời khách thiên hạ tận mấy mâm, hàng xóm phải ra vào ngó xem khách nhà ấy ăn mặc thế nào, xem mặt cán bộ lương thực huyện ra làm sao.

Còn cái kho cuốn cả dãy lừng lững, nó nằm trên đất làng nhưng vì những chủ nhân quản lý kho cuốn và tấm biển ghi "Không phận sự miễn vào" ngay ngoài cổng, dưới gốc cây lại khiến nó xa cách với người làng vô cùng.

Kho cuốn hoạt động và tồn tại suốt một chặng dài với nhiều biến động lịch sử của đất nước cũng như làng xã, phận người nên nó chất chứa bao chuyện, không dễ gì nói ra hết.

Kho cuốn, được xây khoảng thời gian sau năm 1954 đôi năm, khi mà khí thế cách mang sôi sục trong các tầng lớp nhân dân. Những cái kho cuốn màu vàng tươi rói như sự háo hức của tầng tầng lớp lớp những con người mới, làm chủ tập thể, tự tay xây lại đời ta.

Kho cuốn uy nghi, bề thế, phía sau không chỉ có tường chắn cắm thủy tinh, dựng thêm dây thép gai mà còn có đê bao, rậm rạp những cây gai như dứa dại hay xấu hổ. Phía trước là sân rộng, lát gạch lục. Những cổ thụ trong sân xum xuê bóng mát.

Gọi là kho cuốn có lẽ do phần cuốn dưới móng. Kho cuốn không như kho thông thường mà phần móng được làm vững chắc, kiên cố, với những nửa hình tròn cuốn rỗng rộng khoảng 1m sát nối nhau, rồi mới đến sàn. Cuốn này khiến sàn không tiếp đất, nền kho sẽ đỡ ẩm, thóc gạo sẽ không bị nấm mốc.

Kho cuốn có nền cao, bậc lên vững chắc, dễ bước, dễ mang vác, cửa kho to rộng, 2 lần cửa. Mỗi khoang kho có thể chứa được khoảng 150 - 200 tấn lúa, gạo, hoặc có thể là ngô, sắn, bột mì...

Kho có "tường 20", cao, trát phẳng, tường kho thường vẽ hình cổ động cơ giới hóa nông nghiệp và các khẩu hiệu như "Thóc không thiếu 1 cân, quân không thiếu 1 người", "Tất cả vì tiền tuyến", "Quyết tâm thực hiện thắng lợi vụ chiêm xuân chào mừng"…

Kho cuốn lợp mái bằng ngói móc, ngói bò phân chia 2 mái trước sau được trát cẩn thận, sau có hè tránh mưa, đầu hồi cũng đổ mái vuông vức.

Thóc lúa từ kho cuốn phải đem đi B, phải lo nuôi dân thành phố, nuôi cánh dài lưng tốn vải, nuôi cánh thoát ly ăn trắng mặc trơn… người làng từng nói mỉa thế.

Nhiều khi, đến mùa gặt, đôi người thồ lúa về nhà mình, đập phơi giấu, rồi giã cối gạo mới ăn, kệ cho muốn đến đâu thì đến. Chứ đem về sân kho hợp tác, làm mửa mật ra rồi thóc nhập về kho cuốn ai chịu nổi.

Từng khoang, từng khoang, thóc vàng như ruối chín, từ nền rồi cao đến chạm trần cót ép. Những lỗ thông hơi có lưới chống chuột hắt vào những luồng sáng trắng yếu ớt. Người của hợp tác xã nông nghiệp nườm nượp từ các xã thồ thóc tụ tập về sân kho cuốn. Những gốc cây người đứng, người ngồi chờ đến lượt mình nhập thóc.

Phụ nữ thường khăn trùm kín mặt, lại cái nón xùm xụp, xà cạp màu váng đồng đi kín tay vì sợ rặm. Cái cân bàn kì cạch những mã thóc đóng trong các bao dọc xanh khâu kín. Cân xong, vào sổ xong cánh bốc vác rất nhanh 2 người hỗ trợ đặt lên vai 1 người vác vào trong kho. Thóc vào đến nơi đổ, có người cắt đường khâu bao tải, đổ xuống đống.

Chưa vãn mùa kho thóc đã lưng lửng, nhiều ngày phải nhập thóc đến đêm mới nghỉ. Dòng người chưa dứt nhập thóc vào cửa kho này, thì cũng lại rất đông cửa kho kia mở để phát xay. Phát xay là người dân nhận thóc từ kho này về, xay thành gạo nộp lại trả nhà nước, theo tỉ lệ quy định.

Người nhận phát xay sẽ được hưởng trấu, cám, có thể dư ra ít gạo. Nhà nào thiếu đói được nhận phát xay là cả 1 đặc ân.

Nhưng thường thì người dân không mấy khi được nhận mà chỉ có người trong ngành và cùng lắm là cánh bốc vác mới được nhận mà thôi.

Cái kho cuốn không được lòng dân thì phải? Ban ngày thì thế, ban đêm kho cuốn phải canh phòng. Vì nếu kho cuốn bị xâm phạm thì không chỉ đói mà còn nhiều hệ lụy xấu xảy ra.

Đã có những đêm mưa dông, ông thủ kho làm ngụm rượu vừa chợp mắt thì thấy lao xao chạy ra, anh em bảo vệ đã tóm sống một người xóm Chợ lợi dụng đêm tối, đục lỗ thông hơi kho cuốn xúc trộm thóc. Khi hắn vác được đến bao thứ 3 thì bị bắt. Biên bản lập xong, đọc lên, người này cúi đầu kí nhận tội.

Ngay đêm đó, đại đội đã đọc oang oang trên loa "…X.Y.Z can tội ăn cắp tài sản XHCN...". Có người cười khinh bỉ, người lại bảo "Đói thì làm liều chứ sao?".

Rồi khoản sản phẩm đến nhóm và người lao động, bà con hay gọi tắt là khoán quản. Ruộng nhà nào, nhà ấy cấy, thoát cái cảnh ăn chung đổ hộn. Đến mùa nộp thuế, kho cuốn đông kín người. Tiếng cười nói, tiếng chửi cũng không thiếu. Người ta chửi thủ kho vì không nhận thóc của họ. Thủ kho thì kiên quyết không nhập thóc lép.

Đôi người hát toáng lên câu hát "Chớ mang thóc lép qua cầu gió bay", trong khi dân đuổi đánh thủ kho chạy xung quanh kho cuốn, bị dồn ngã dúi dụi vào gốc dứa dại toàn gai sắc. Đám người đi nộp thóc thuế vội vàng vào can nếu không thủ kho sẽ bị đánh như đòn thù...

Thế rồi, đùng cái "bỏ sổ gạo". Lúc này, kho cuốn còn, nhưng vắng vẻ hơn xưa nhiều. Đã có chính sách nộp thuế bằng tiền, chuyển đổi giống cây trồng trên đất cũng khiến đồng đất quê nhà và diện mạo làng xã thay đổi hẳn.

Lương thực huyện cũng không còn là mối quan tâm của dân thoát ly nữa. Cây lâu năm khu kho cuốn rậm rạp, cỏ mọc đầy sân, màu vôi vàng cũng đã bạc theo thời gian.

Nhiều kho cuốn bị phá dỡ, khiến nhiều người nay không hề có khái niệm gì về kho cuốn. Một số kho đã thuộc về cơ quan quản lý lương thực quốc gia quản lý.

Người dân lo làm ăn cũng không mấy quan tâm đến kho cuốn nữa. Có chăng chỉ là nhằm vào khu đất ấy, nếu có dỡ kho, bán đấu thầu hay thiên hạ có tiền tìm về mua đất làng.





Nguyễn Minh Hoa




Nguon: https://nongnghiep.vn/

Truyện cổ tích: Chim Cú cứu Voi


Lâu lắm rồi, khi vừa mới có trái đất, người và vật đều hiểu ngôn ngữ của nhau. Thời đó người ta cho rằng những điều thấy trong mơ đều sẽ thành sự thật. Hễ mơ thấy vàng thì đúng là sẽ được vàng, mơ chết là sẽ chết. Nếu con người mơ thấy như thế nào thì sự việc cũng sẽ xảy ra như thế.
Có một con Hổ đang nằm ngủ, mơ được ăn thịt Voi, sáng ra nó rất mừng vì biết thế nào hôm nay nó cũng có thịt Voi để ăn. Hổ lởn vởn ở trong rừng và quả nhiên nó gặp một con Voi. Hổ nói:
- Đêm qua ta nằm mơ được ăn thịt của ngài, hôm nay ta gặp ngài ở đây, ta phải ăn thịt ngài.
Voi nghe vậy run lên sợ hãi, kêu xin Hổ:
- Ngài hãy rủ lòng thương tha cho ta, từ nay ta sẽ làm mọi việc để hầu hạ ngài.
Hổ không chịu và nói:
- Không được, không được đâu, tôi sẽ ăn thịt ngài ngay bây giờ.
Không còn cách nào. Voi van nài:
- Ngươi đã ngủ và mơ thấy như vậy thì trước sau cũng ăn được thịt ta, chỉ xin ngươi hãy chậm lại cho ta bảy ngày nữa, rồi ta tự đến nộp mạng cho nhà ngươi.
Hổ nghe Voi nói, động lòng thương nên chấp nhận ngay.
Sau khi tạm thoát chết, Voi vừa đi vừa khóc, lang thang trong rừng hết chỗ này đến chỗ khác, đi không có hướng, không có đích. Cuối cùng Voi gặp một con chim Cú. Cú hỏi:
- Anh Voi ơi, tại sao anh lại buồn thế? Anh khóc vì lí do gì nào? Anh hãy kể cho tôi nghe đi.
Voi liền kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Cú nghe. Cú an ủi:
- Đừng khóc nữa anh Voi ạ, không sao đâu. Tôi sẽ giúp anh thoát chết.
Nói xong, Cú dẫn Voi đến gặp Phain, hỏi:
- Có một con Hổ nằm mơ thấy được ăn thịt Voi, cho nên bây giờ Voi rất đau khổ. Vậy làm thề nào để Voi thoát chết?
Phain trả lời:
- Khi Hổ nằm mơ như vậy thì cứ để cho Hổ ăn thịt Voi, chứ biết làm thế nào được.
Chim Cú nghe nói vậy thì nhắm mắt lim dim ngủ, lát sau giật mình tỉnh dậy, nó nói với Phain:
- Tôi vừa nhắm mắt ngủ, mơ thấy được lấy vợ của Phain, vậy xin ngài hãy trao vợ cho tôi đi.
Nghe chim Cú nói vậy, Phain hoảng hốt nói:
- Không được, làm gì có chuyện ấy. Nếu cứ để những chuyện trong mơ thành sự thật như vậy thì sẽ gây nên nhiều nỗi bất hạnh đầy rắc rối. Ta ra lệnh: "Từ nay trở đi, những chuyện mơ không thành sự thật nữa".
Nghe vậy, chim Cú vui mừng nói với Voi:
- Voi ơi, giờ thì anh đã thoát chết rồi đó.
Voi mừng rỡ, cảm ơn chim Cú đã giúp mình thoát khỏi cơn hoạn nạn.

Nguon: tintuc.vn